|
Chụp ảnh tử thi là một xu hướng chụp ảnh khá phổ biến vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Đa phần họ chỉ muốn chụp lại khuôn mặt của người đã khuất như một cách để tưởng niệm về thân nhân quá cố, nhất là vào thời đại mà tỷ lệ tử vong ở trẻ em còn khá cao do mắc phải các căn bệnh truyền nhiễm khó chữa. |
|
Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, các nhiếp ảnh gia thời đó cũng liên tục tìm ra nhiều phương pháp chụp hình mới nhằm khiến người đã khuất trông như còn đang sống với đôi má ửng hồng, cặp mắt nhìn thẳng vào ống kính hay thậm chí là... mơ màng như yên giấc ngủ say. |
|
Nhiếp ảnh thuở ban đầu có thời gian phơi sáng dài. Đối tượng được chụp cần phải đứng yên trong 30 giây trước khi có thể chụp ảnh. Mà với trẻ em, rất khó để người lớn có thể giữ chúng ngồi yên và nhìn chằm chằm vào máy ảnh lâu như vậy. Vì vậy đã có trào lưu chụp ảnh người mẹ giấu mặt. Các bà mẹ sẽ bế, giữ con của họ ngồi im nhưng phải phủ lên mình những bộ quần áo để hòa cùng phông nền. |
|
Năm 1861, nhiếp ảnh gia William H. Mumler đã khám phá ra một phương pháp tạo ra những bóng ma nhất quán trong các bức ảnh của mình và ông đã dùng nó để lừa khách hàng. Ông tuyên bố rằng mình có thể chụp những bức ảnh thật về hồn ma và chẳng bao lâu sau, khách hàng đã kéo đến cửa hàng của Mumler để chụp ảnh với hồn ma của những người thân quá cố của họ. |
|
Trong ảnh được chụp trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 hiếm khi xuất hiện những nụ cười. Bởi nhiếp ảnh ban đầu được coi là một phần mở rộng của hội họa và tranh thì phải trông tự nhiên. Điều này có nghĩa là người trong ảnh cũng không được phép mỉm cười, thể hiện cảm xúc. |
|
Một lý do khác là thời gian phơi sáng lâu của các máy ảnh đời đầu. Họ bắt buộc phải duy trì một biểu cảm khuôn mặt để tránh kết thúc bằng một cái miệng mở. Hầu hết mọi người chọn biểu cảm khuôn mặt không cảm xúc vì đây là lựa chọn an toàn nhất. |
|
Nhiếp ảnh gia người Thụy Điển Oscar Rejlander đã sử dụng kỹ thuật phương pháp cắt và dán hai bức ảnh lại với nhau để tạo ra thể loại chân dung không đầu vào thế kỷ 19. Vào mấy trăm năm trước thì đó là cả tác phẩm nghệ thuật. |
|
Năm 1907, Tiến sĩ Julius Neubronner đã nộp bằng sáng chế cho máy ảnh chim bồ câu. Như cái tên của nó, chiếc máy ảnh được gắn vào một con chim bồ câu. Bộ hẹn giờ cho phép nó tự động chụp ảnh khi bồ câu đang bay. Đây có thể coi chính là phiên bản đời đầu của máy ảnh không người lái. |
|
Mọi người bắt đầu tìm kiếm cách để trông đẹp hơn trong ảnh ngay sau khi phát minh ra nhiếp ảnh. Người thời Victoria ở Anh đã giải quyết vấn đề này bằng... bút chì để chỉnh sửa thủ công các tấm kính được sử dụng để tạo ra các bức ảnh. Chỉnh sửa ảnh rất phổ biến trong thời đại Victoria đến nỗi hầu hết mọi bức ảnh đều được chỉnh sửa thủ công như vậy. |
|
Một số bức ảnh của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 có màu sắc mặc dù nhiếp ảnh màu chỉ được hoàn thiện vào giữa thế kỷ 20. Họ đã dùng màu tô thủ công lên ảnh. Đến năm 1950, khi chụp ảnh màu ra đời thì tất nhiên xu hướng này biến mất. |
|
Xu hướng chụp ảnh áo đỏ xuất hiện sau sự hoàn thiện của nhiếp ảnh màu và được các tạp chí tạo ra. Khi mới có ảnh màu, các biên tập viên sớm nhận ra rằng độc giả tập trung vào màu sắc trong ảnh thay vì các đường nét và chuyển động vốn là tiêu điểm trong thời đại của ảnh đen trắng. |