Lễ Vu lan trở thành lễ hội lớn trong cộng đồng Việt từ bao giờ

Từ một nghi lễ Phật giáo, lễ Vu lan dần trở thành lễ hội văn hóa – tâm linh lớn, lan tỏa tình hiếu thảo trong cộng đồng người Việt qua nhiều thế hệ.

Lễ hội Vu lan từ lâu đã trở thành lễ hội văn hóa Phật giáo và của dân tộc Việt Nam. Theo nghiên cứu của tác giả Chúc Phú, lễ hội Vu lan đã tồn tại khoảng 1.500 năm tại Trung Quốc. Do đó, lễ hội Vu lan được tổ chức tại Việt Nam sớm nhất cũng vào thời gian trên bởi lễ hội này có nguồn gốc từ Trung Quốc và chưa có tư liệu nào chứng tỏ nó ra đời độc lập tại Việt Nam.

Lễ Vu lan đã lan tỏa rộng ra trong xã hội và trở thành lễ hội quần chúng.
Lễ Vu lan đã lan tỏa rộng ra trong xã hội và trở thành lễ hội quần chúng.

Lễ hội Vu lan được nhiều người ngày nay biết đến thông qua hai bản kinh Vu lan và Báo hiếu công ơn cha mẹ. Nội dung hai bản kinh nói về đạo hiếu và đưa ra phương pháp báo hiếu theo Phật giáo Bắc tông. Bản kinh Vu lan nêu câu chuyện mẹ của Tôn giả Mục-kiền-liên là bà Thanh Đề tạo tội ác nên đọa làm ngạ quỷ đói khát.

Tôn giả Mục-kiền-liên được miêu tả có lòng hiếu thảo rất lớn nên khi chứng Thánh quả liền vận thần thông tìm mẹ để biết mẹ đã tái sinh nơi đâu. Khi biết mẹ bị đọa làm ngạ quỷ, Tôn giả tìm cách cứu mẹ và được Đức Phật chỉ dạy phương pháp cứu mẹ là cúng dường chư Tăng gồm các loại thức ăn và nhu yếu phẩm như thuốc men, giường nằm… vào dịp rằm tháng Bảy khi chư Tăng tiến hành lễ Tự tứ kết thúc mùa an cư theo truyền thống Bắc tông.

Nhờ công đức tu tập và sức chú nguyện của chư Tăng, mẹ Tôn giả cùng các chúng sinh khác đã thoát khỏi cảnh ngạ quỷ đói. Pháp cứu tế được dạy trong bản kinh không chỉ cứu độ cha mẹ, người thân đã qua đời được sinh về cảnh an lành mà còn giúp cho cha mẹ, thân bằng quyến thuộc còn sống được trường thọ, khỏe mạnh. Từ lễ hội trong Phật giáo, lễ Vu lan đã lan tỏa rộng ra trong xã hội và trở thành lễ hội quần chúng.

Lễ hội Vu lan trở thành lễ hội của người Việt

Có thể nói rằng đạo hiếu là đạo đức của người phương Đông. Ở Việt Nam, đạo hiếu chịu sự ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo bởi hai nguồn tư tưởng này chi phối đời sống tinh thần người Việt trong nhiều thế kỷ. Từ đó, hiếu trở thành nền tảng quan trọng để đánh giá con người có đạo đức ở phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng.

Nho giáo nhấn mạnh hiếu là giữ hình hài thân thể do cha mẹ sinh ra mà không được thay đổi như cạo bỏ râu tóc, làm thẩm mỹ chỉnh sửa thân thể…; là lo lập thân có danh với thiên hạ cho đời kính nể; là phụng dưỡng cha mẹ với thái độ vui vẻ; là lo tang lễ hết mực thương xót; là cúng tế phải trang nghiêm (“Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chi thủy dã; lập thân hành đạo, dương danh ư hậu thế…

Về phần hiếu khi cha mẹ qua đời, Nho giáo nhấn mạnh đến sự đau thương khóc lóc, cúng tế mà không đề cập đến sự siêu thoát, ngoại trừ mặc định là “linh hồn” người chết sẽ đến nơi cư trú của tổ tiên là huỳnh tuyền hay suối vàng. Phật giáo thì đề cập hiếu cả về vật chất lẫn tinh thần, khi còn sống cũng như khi qua đời. Khi còn sống thì người con phụng dưỡng, hướng cha mẹ biết đạo để làm các điều thiện. Khi cha mẹ qua đời thì người con làm phước bằng cách bố thí, cúng dường để hồi hướng phước báu cầu siêu cho cha mẹ.

Quan niệm hiếu thảo với ông bà tổ tiên qua hình thức cúng tế để được gia hộ cộng với tấm lòng mong muốn tổ tiên ông bà cha mẹ qua đời được siêu thoát nên người tín đồ Phật giáo thực hiện nghi lễ cúng tế và cúng dường theo Phật giáo. Có lẽ chính pháp cứu tế theo kinh Vu lan phù hợp với tâm tư nguyện vọng của quần chúng người Việt và cũng dễ thực hiện theo phương cách cúng dường nên lễ hội Vu lan của Phật giáo trở thành lễ hội của người Việt.

Hơn nữa, ai cũng có ông bà tổ tiên, ai cũng có nhu cầu thể hiện lòng hiếu qua hình thức cúng tế cầu nguyện, nhất là cho những người thân, cho nên lễ Vu lan được tiếp nhận một cách tự nhiên và trở thành lễ hội tâm linh của đa số người Việt.

Lễ Vu lan trở thành lễ hội trong cộng đồng người Việt nhưng chỉ mới tác động đến lĩnh vực là hiếu, và thường là sự biểu hiện qua hình thức cúng tế cầu siêu người quá cố. Khoảng trống trong lễ hội đang được bổ sung bằng các hoạt động thiết thực như lễ bông hồng cài áo, lễ tri ân… Một số ít Phật tử nghe pháp có thể hiểu ý nghĩa Vu lan nhưng phần lớn tín đồ vẫn chưa hiểu rõ lễ này nên họ còn có tâm lý sợ “tháng Bảy là tháng cô hồn”, còn đốt vàng mã quá nhiều, và còn những quan niệm chưa đúng đắn…

danviet.vn

Phật dạy chỉ cần làm điều này, tài vận hanh thông bất tận

Bạn tự hỏi vì sao tiền tài mãi không đến? Bí mật không nằm ở trí thông minh hay may mắn, mà ẩn chứa trong triết lý 'Bố thí Tam luân thể không' của Phật giáo.

Trong thế giới với hơn 8 tỷ dân, con số những người đạt đến đỉnh cao tài chính, trở thành tỷ phú hay những cá nhân siêu giàu, luôn là một tỷ lệ cực kỳ nhỏ. Ngay cả các tập đoàn danh tiếng trong Fortune 500 hay Forbes Global 2000 cũng chỉ là một phần rất nhỏ trong bức tranh kinh tế toàn cầu. Mọi ánh nhìn đều hướng về những người thành công về mặt tài chính, nhưng ít ai thực sự hiểu được rằng, sự thịnh vượng mà họ đạt được không phải ngẫu nhiên, mà ẩn chứa những nguyên nhân sâu xa. Thậm chí, ngay cả một vé số trúng giải độc đắc cũng không nằm ngoài quy luật nhân quả.

songdao1.jpg
Phật giáo dạy rằng, "bố thí" (cho đi) là con đường dẫn đến sự giàu có, tài sản sẽ quay trở lại với người biết sẻ chia. Ảnh: Weibo

Điều khó tin về ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới

Borobudur là một kiệt tác kiến trúc nằm giữa những cánh đồng xanh và núi non của đảo Java, Indonesia.

1. Borobudur là đền Phật giáo lớn nhất thế giới. Với cấu trúc gồm hơn 2 triệu khối đá và diện tích hơn 2.500 m², Borobudur là một kỳ quan kiến trúc mang tính biểu tượng của Phật giáo. Ảnh: Pinterest.
1. Borobudur là đền Phật giáo lớn nhất thế giới. Với cấu trúc gồm hơn 2 triệu khối đá và diện tích hơn 2.500 m², Borobudur là một kỳ quan kiến trúc mang tính biểu tượng của Phật giáo. Ảnh: Pinterest.
2. Được xây dựng từ thế kỷ thứ 8. Ngôi đền ra đời dưới triều đại Sailendra vào khoảng năm 800 SCN, trước cả các công trình nổi tiếng như đền Angkor Wat hay nhà thờ Đức Bà Paris. Ảnh: Pinterest.
2. Được xây dựng từ thế kỷ thứ 8. Ngôi đền ra đời dưới triều đại Sailendra vào khoảng năm 800 SCN, trước cả các công trình nổi tiếng như đền Angkor Wat hay nhà thờ Đức Bà Paris. Ảnh: Pinterest.