Bề dày lịch sử
Qua cầu Lạc Quần bắc qua dòng Ninh Cơ thơ mộng là chạm đến cổng làng Kiên Lao. Cánh cổng giống như mốc phân định ranh giới của những cái cũ tách bạch khỏi những cái mới. Cho nên, khi bước qua cổng làng, một hình ảnh cổ kính hiện ra.
![]() |
Nghề đúc chuông đòi hỏi kỹ thuật phải gần như tuyệt đối chính xác. |
Các cụ cao niên ở làng Kiên Lao nói rằng, tất cả những thành quả ấy bắt nguồn từ nghề đúc đồng của làng. Cách đây hơn 200 năm, tổ nghề là cụ Lê Văn Nghiêm, quê gốc ở Đông Sơn, Thanh Hóa - nơi nổi tiếng trên cả nước với nghề làm trống đồng - đã mang theo những kiến thức học được đến Kiên Lao. Qua tìm hiểu nhu cầu của xã hội lúc bấy giờ, cụ đã chuyển sang làm nghề đúc chuông.
Sau này, con cháu dòng họ Lê của cụ đã cùng nhau giữ gìn, truyền nghề và phát triển việc đúc chuông cho tới bây giờ. Tính đến nay, nghề đúc Kiên Lao đã truyền qua 6 đời. Một thời gian dài nghề bị đình đốn bởi chiến tranh, bởi khó khăn về nguyên vật liệu. Từ khi đất nước chuyển đổi cơ chế, cũng như các làng nghề khác, nghề đúc Kiên Lao mới có cơ hội khôi phục và phát triển.
Theo các nghệ nhân, thì chuông đúc có 2 loại là chuông Tây và chuông Nam. Chuông Tây thì dùng dây kéo, còn chuông Nam thì dùng vồ. Đúc chuông ngoài yêu cầu kỹ thuật, mỹ thuật, tạo hình, họa tiết, hoa văn gọi là “sắc” thì còn đòi hỏi nghiêm ngặt về tiếng, gọi là “thanh”. Dù chuông Tây hay chuông Nam, khi thỉnh lên tiếng phải trong, ngân nga, âm vang trong tưởng chừng không bao giờ dứt. Các sản phẩm đúc khác nếu khiếm khuyết có thể sửa chữa được, còn quả chuông đúc đòi hỏi phải hoàn hảo cả “thanh” và “sắc”, không được phép sai lầm.
Vì thế chuông đúc ra chỉ cần tiếng không được trong là phải bỏ đi đúc lại. Tiếng chuông không chỉ để nghe được trong phạm vi làng xã mà còn phải tới được tai khách thập phương. Nếu tiếng chuông vang càng xa, thánh đường, nơi lễ Phật được tôn vinh thì đó chính là niềm tự hào của con chiên, đệ tử.
Chính nhờ tiêu chí ấy mà những người kế tục nghề đúc chuông thấy được giá trị tinh hoa truyền thống của các bậc tiền nhân truyền lại. Từ đó mọi người cùng nhau gìn giữ để nghề không bị thất truyền và phấn đấu phát huy lên tầm cao mới.
![]() |
Nhất nghệ tinh…
Theo các nghệ nhân trong làng, nhờ một số cải tiến trong kỹ thuật mà bây giờ những người thợ đúc chuông Kiên Lao có thể làm ra được những quả chuông nặng hơn xưa rất nhiều. Nếu trước đây chỉ có thể đúc được những quả chuông nặng tối đa khoảng 1 tấn, thì nay có thể đúc những quả chuông nặng vài chục tấn.
![]() |
Một quả chuông Nam do người Kiên Lao mới đúc xong. |
Còn anh Lê Văn Hiệt ở xóm 9, Xuân Tiến cho biết: “Đúc chuông là công việc khó không phải ai cũng làm được. Ngoài việc thạo nghề, người thợ còn phải có kinh nghiệm mới có thể đảm nhận được. Đúc chuông phải trải qua nhiều công đoạn khác nhau từ làm khuôn, tạo hình, khắc hoa văn, nung khuôn, đổ thiếc, đồng, cho tới khâu làm nguội... Trong đó, công đoạn làm khuôn mất nhiều thời gian nhất. Tùy vào kích cỡ của chuông, việc này có thể mất khoảng 20 ngày trở lên. Tất cả các công đoạn trong quá trình đúc đều rất quan trọng nên đòi hỏi người thợ phải hết sức tỉ mỉ và tập trung cao độ, chỉ cần sơ ý là toàn bộ sản phẩm sẽ phải bỏ đi làm lại từ đầu.
![]() |
Thợ làm chuông đang làm khuôn đúc. |
Khi một quả chuông được kéo lên tháp, bao giờ cũng cất những hồi “báo tiếng”. Lúc này, người thợ cả và đại diện nơi thuê đúc chuông sẽ đi ra thật xa để nghe âm thanh vọng lại. Tiếng chuông cuối cùng vang rền như tiếng sấm thì bản nhạc 7 chuông mới đạt chuẩn mực.