
Bắt đầu từ rạng sáng ngày 13/6, quân đội Israel (IDF) đã bất ngờ mở chiến dịch Am KaLavi (Sư tử trỗi dậy), tấn công ồ ạt Iran bằng không quân và lực lượng điệp báo. Qua 12 ngày tiến hành chiến dịch, có thể đánh giá kết quả 4 nhiệm vụ của chiến dịch Am KaLavi đó là:

Thứ nhất, tập trung phá hủy các cơ sở hạt nhân của Iran. Israel tin rằng Iran sắp sở hữu vũ khí hạt nhân. Nếu không dừng phát triển thêm, thì sự tồn tại của Israel ở Trung Đông sẽ bị đe dọa và vị thế bá chủ của họ sẽ bị mất. Vì lý do này, Không quân Israel đã tập trung tấn công các cơ sở hạt nhân của Iran vào ngày đầu tiên của chiến dịch, với hy vọng phá hủy hoàn toàn chúng, để Iran có thể phi hạt nhân hóa và từ bỏ ý tưởng phát triển vũ khí hạt nhân.

Trong 12 ngày liên tục, kể cả với sự giúp đỡ của lực lượng không quân chiến lược Mỹ, Không quân Israel đã tấn công hơn 10 cơ sở hạt nhân của Iran. Nhưng Israel không thể phá hủy các bộ phận cốt lõi, nếu không có máy bay ném bom chiến lược của Mỹ, để thả những quả bom xuyên boongke khổng lồ.

Đặc biệt, phần lõi của cơ sở hạt nhân Fordow nằm sâu gần 100 mét dưới lòng đất. Bom thường, hoặc vũ khí dẫn đường chính xác của Israel, đều giống như “muỗi đốt cột điện”. Ngay cả Mỹ với bom xuyên GBU-57 MOP mạnh nhất, cũng không chắc chắn có thể phá được mục tiêu ngầm sâu tới 60 mét.

Về lý thuyết, Israel cần ít nhất 10 quả bom GBU-57 MOP để tấn công các cơ sở hạt nhân của Iran từ cùng một vị trí, nhưng quan sát trên thực tế, các lỗ bom GBU-57 MOP do máy bay ném bom B-2 thả xuống, không gây sự tàn phá lớn. Do đó, kế hoạch phá hủy các cơ sở hạt nhân của Iran của Israel về cơ bản là không thể thực hiện được.

Thứ hai, tiêu diệt lực lượng phản công của Iran. Lực lượng tên lửa của Iran là mục tiêu chính của Không quân Israel và cũng là lực lượng phản công tầm xa duy nhất của Iran. Chỉ bằng cách loại bỏ mối đe dọa tên lửa từ Iran, Israel mới có thể đảm bảo rằng mình sẽ không bị tấn công.

Trong 12 ngày qua, Iran đã hoàn thành ít nhất 21 đợt tấn công tên lửa vào Israel, phóng khoảng 620 tên lửa, trung bình 30 tên lửa mỗi đợt. Mặc dù Israel đã triển khai các hệ thống phòng không đa tầng dày đặc và các hệ thống chống tên lửa THADD, Arrow 2/Arrow 3, Patriot PAC-3, nhưng một số lượng lớn tên lửa của Iran đã đột kích và tấn công thành công nhiều cơ sở hạ tầng quan trọng của Israel, gây ra thiệt hại lớn.

Do đó, các hành động của Không quân Israel tập trung vào việc tấn công các trận địa phóng tên lửa, bệ phóng, kho tên lửa và các mục tiêu khác của Iran. Từ những hình ảnh công khai, nhiều phương tiện vận chuyển hoặc phóng tên lửa của Iran đã bị phá hủy, và các lối vào và lối ra của các boongke ngầm đã bị thổi bay.

Israel tuyên bố rằng họ đã phá hủy hơn một nửa số bệ phóng tên lửa của Iran và can thiệp vào các hành động trả đũa quy mô lớn. Đánh giá từ cường độ phản công của Iran trong vài ngày qua, số lượng vụ phóng tên lửa thực sự đã cho thấy xu hướng giảm.

Trong ba ngày trả đũa đầu tiên, số lượng tên lửa phóng trung bình vượt quá 60 và số lượng vụ phóng mỗi ngày kể từ đó chỉ trong khoảng từ 20 đến 30, cho thấy hoạt động ngăn chặn của Israel, đã gây ra tác động nhất định.

Tuy nhiên, hầu hết tên lửa của Iran đều được cất giữ dưới lòng đất. Các cuộc không kích của Israel chỉ ngăn chặn không cho Iran sử dụng, nhưng chưa phá hủy hoàn toàn chúng. Iran có thể phóng tên lửa bất cứ lúc nào nếu có cơ hội. Đặc biệt Iran đã triển khai tên lửa hạng nặng Khorramshahr-4, được cho là “siêu tên lửa”, có tầm bắn xa hơn, sức công phá lớn hơn và khả năng xuyên phá mạnh hơn.

Tên lửa Khorramshahr-4 sử dụng nhiên liệu rắn hai tầng, và có thể phóng trên các bệ phóng cơ động; tầm bắn tối đa của tên lửa này là hơn 2.000 km, có thể mang đầu đạn nổ mạnh nặng 1.500 kg và có thể phóng từ miền đông Iran, nên máy bay chiến đấu Israel khó có thể đe dọa nó. Do đó, Israel gần như không thể tiêu diệt lực lượng tên lửa của Iran.

Theo dự trữ tên lửa, năng lực sản xuất và tần suất phóng trong vài ngày qua của Iran, tên lửa của Iran có thể tiếp tục phóng trong ít nhất vài tháng. Nếu hệ thống phòng không của Israel sẽ sụp đổ trước, họ sẽ không thể tự bảo vệ mình trước các cuộc tấn công.

Thứ ba, là làm tan rã chế độ Iran. Ngay khi cuộc tấn công bắt đầu, tin xấu đã đến với các nhà lãnh đạo cấp cao của Iran. Tổng tư lệnh, phó tổng tư lệnh, tham mưu trưởng, tư lệnh không quân và các giám đốc cơ quan tình báo Iran lần lượt bị ám sát.

Thông qua hoạt động xâm nhập, theo dõi và triển khai lâu dài, Israel đã cố gắng làm tê liệt chỉ huy cấp cao của Iran chỉ trong một đòn, gây ra sự hỗn loạn từ “trung tâm ra quyết định” của Iran, làm chậm tốc độ phản công và thậm chí cố gắng lật đổ chế độ Iran. Tuy nhiên, từ hiệu ứng thực tế, hoạt động ám sát của Israel không ảnh hưởng đến Iran. Cuộc phản công được tiến hành nhanh chóng và bộ chỉ huy không hỗn loạn. Do đó, Israel cũng không đạt được mục tiêu này.

Thứ tư, Israel đã cố gắng mở đường cho Mỹ can thiệp bằng cách phát động một cuộc tấn công phủ đầu, để cùng nhau phá hủy các cơ sở hạt nhân và lực lượng phản công của Iran, qua đó loại trừ mối đe dọa với Israel ở Trung Đông.

Vào đêm ngày 22-6, hãng tin CNN dẫn lời một quan chức Mỹ cho biết Washington đã triển khai 6 máy bay ném bom B-2 thả hàng loạt bom xuyên boongke xuống cơ sở hạt nhân Fordow ở Iran. Ngoài ra, một chiếc B-2 khác cũng thả hai quả bom cùng loại xuống Natanz. Vị quan chức này cho biết thêm các tàu ngầm hải quân Mỹ đã phóng tổng cộng 30 tên lửa hành trình TLAM nhằm vào Natanz và Isfahan.

Tuy nhiên trước khi máy bay Mỹ tham gia chiến dịch tấn công các cơ sở hạt nhân của Iran, Iran đã chuyển hết nhân sự cũng như máy móc, vật liệu hạt nhân ở các cơ sở trên vào vị trí an toàn. Do vậy, chiến dịch ném bom của Mỹ dù “ồn ào”, nhưng hiệu quả thực sự thấp.

Sau 13 ngày giao tranh, vào lúc 7:00 sáng 24/6 (giờ GMT), chế độ ngừng bắn, được Tổng thống Mỹ Donald Trump và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu công bố trước đó đã có hiệu lực. Phía Iran không chính thức xác nhận hoặc phủ nhận việc tham gia ngừng bắn.

Có thể khẳng định, Israel đã đánh giá thấp sức mạnh của Iran và đánh giá quá cao năng lực của chính mình. Đến thời điểm hiện tại, 4 nhiệm vụ của chiến dịch Am KaLavi của Israel vẫn còn đang “dang dở”, đặt Tel Aviv vào tình thế khó khăn. Cho đến nay việc ngừng bắn đã được thiết lập, nhưng nó sẽ bền vững đến mức nào vẫn là một câu hỏi bỏ ngỏ. (Nguồn ảnh Al Jazeera, IRNA, The Time of Israel).