Sáng 10/12, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Bảo hiểm tiền gửi với đại đa số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/5/2026.
Trước khi Quốc hội thông qua, bà Nguyễn Thị Hồng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi.
Trong đó, có đề nghị tiếp tục nghiên cứu các quy định để tăng cường vai trò quản lý, giám sát của NHNN trong việc chi trả sớm bảo hiểm tiền gửi quy định tại Điều 21 và Điều 36, tránh gây tác động tiêu cực về mặt tâm lý đối với người gửi tiền, có nguy cơ hiệu ứng lan truyền gây rút tiền hàng loạt, khiến những tổ chức tín dụng đang có cơ hội phục hồi bị ảnh hưởng làm cho quá trình phục hồi gặp khó khăn.
Thống đốc cho biết, tại Điều 21 Luật quy định nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm phát sinh kể từ một trong 3 thời điểm.
Trong đó trường hợp tại khoản 1 là khi phương án phá sản tổ chức tín dụng được phê duyệt hoặc NHNN có văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền; quy định này thống nhất với Luật Các tổ chức tín dụng.
Đối với trường hợp chi trả sớm, tại khoản 2, 3 Điều 21 và Điều 36 dự thảo Luật đã xác định thời điểm, cơ quan xác định, điều kiện để thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
Cụ thể, đối với trường hợp tại khoản 2 Điều 21, việc chi trả phát sinh khi NHNN có văn bản đình chỉ hoạt động nhận tiền gửi của tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt và tổ chức tín dụng đó có lỗ lũy kế lớn hơn 100% giá trị của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất.
Đối với trường hợp tại khoản 3 Điều 21, việc chi trả phát sinh khi NHNN có văn bản thông báo cho tổ chức bảo hiểm tiền gửivề việc chi trả theo quy định tại khoản 2 Điều 36. Theo đó, để bảo đảm an toàn hệ thống, trật tự an toàn xã hội theo quy định tại khoản 4 Điều 162 Luật Các tổ chức tín dụng, NHNN báo cáo Chính phủ quyết định việc yêu cầu tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi trả trong trường hợp tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt bị mất hoặc có nguy cơ mất khả năng chi trả theo pháp luật các tổ chức tín dụng.
“Luật đã xác định vai trò của NHNN trong việc đưa ra các văn bản để xác định thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm đối với các trường hợp chi trả sớm”, bà Hồng nêu.
Trường hợp phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm tại khoản 2, 3 Điều 21 dự thảo Luật là các trường hợp mới được bổ sung tại Luật Bảo hiểm tiền gửi, tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi trả sớm hơn cho người gửi tiền (ngoài trường hợp sau khi phương án phá sản được phê duyệt quy định tại khoản 1).
“Việc bổ sung quy định về chi trả sớm nhằm đảm bảo việc chi trả được kịp thời, ngay khi tổ chức tín dụn xảy ra sự kiện có nguy cơ gây mất an toàn hệ thống, góp phần ổn định tâm lý người gửi tiền, ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ, qua đó tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thể thực hiện tốt hơn mục tiêu bảo vệ quyền lợi người gửi tiền”, Thống đốc cho hay.
Đối với vay đặc biệt, tổ chức bảo hiểm tiền gửi được vay đặc biệt với lãi suất 0%, không có tài sản bảo đảm từ Ngân hàng Nhà nước trong trường hợp quy định tại Điều 21 và khi số tiền trong quỹ dự phòng nghiệp vụ không đủ để trả tiển bảo hiểm.
Số tiền trong quỹ dự phòng nghiệp vụ không đủ để trả tiền bảo hiểm dược xác định khi tổ chức bảo hiểm tiển gửi đã sử dụng hết số tiền trong quỹ dự phòng nghiệp vụ mà vẫn không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm. Việc bán giấy tờ có giá chưa đến hạn, rút các khoản tiền gửi chưa đến hạn phải bảo đảm nguyên tắc bảo toàn vốn trong hoạt động đầu tư.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi xây dựng phương án tăng phí bảo hiểm tiền gửi để bù đắp phần vay đặc biệt; sử dụng tiền trả nợ vay đặc biệt của tổ chức tín dụng, nguồn thu từ bán giấy tờ có giá do tổ chức bảo hiểm tiền gửi nắm giữ, thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng vay đặc biệt, phí bảo hiểm tiền gửi để ưu tiên hoàn trả nợ vay đặc biệt cho Ngân hàng Nhà nước.