Tưởng phá sản, ai ngờ “ông trùm” Sài Gòn thắng lớn

Quách Đàm thu mua nhiều đến nỗi gạo không còn chỗ chứa nhưng không may, thời điểm ấy, giá lúa gạo trên thị trường thế giới bị sụt giảm. Khả năng ông bị lỗ rất nặng.

Thương trường như chiến trường
Là một thương gia thành đạt, ngoài sự nhanh nhẹn, khôn khéo, ông Quách Đàm còn có cách làm quen và giao thiệp khéo léo với quan chức lớn của chính quyền.
Ông đã tạo được một địa vị cao trong xã hội đến nỗi Thống Đốc Nam Kỳ thời đó, Cognacq, vốn là người tự cao tự đại, cũng hạ mình cầu thân với ông.
Thêm nữa, mánh lới làm ăn cũng là một thủ thuật giúp ông thoát được những sai lầm trong tính toán.
Tuong pha san, ai ngo “ong trum” Sai Gon thang lon
Tượng ông Quách Đàm trước đây được đặt bên trong chợ. Sau này, tượng được di dời về Bảo tàng Mỹ thuật thành phố. 
Chuyện kể, ông thao túng thị trường lúa gạo bằng cách cho người đi khắp miền Tây thu mua toàn bộ gạo về chứa đầy trong các kho với mục đích xuất bán qua Singapore. Ông thu mua nhiều đến nỗi gạo không còn chỗ chứa nhưng không may cho ông, thời điểm ấy, giá lúa gạo trên thị trường thế giới bị sụt giảm.
Với sức mua đó so với giá bán, khả năng ông bị lỗ rất nặng. Thế nhưng ông vẫn bình tĩnh tiếp tục thu mua thậm chí với giá còn cao hơn trước như không có gì xảy ra.
Ông âm thầm ra mật lệnh cho nhân viên ở Singapore (lúc đó Singapore còn đang thuộc Anh rồi sau đó là Nhật, cho đến khi trở thành một nước cộng hòa độc lập vào ngày 9 tháng 8 năm 1965), tung tin đồn giá lúa sắp tăng, đồng thời cũng ngưng không thu mua tiếp. Thương lái trong nước nghe tin đồn tung hết vốn liếng ra để dự trữ lúa gạo. Ông bắt đầu mở kho xuất bán và bán cho đến khi kho vơi đi thì thương lái cũng vừa kịp biết mình bị lừa. Ông đã thoát lỗ một cách ngoạn mục.
Trong thương trường, Quách Đàm là người mưu lược và rất lợi hại. Thế nhưng đối với xã hội ông rất được lòng mọi người. Ông thường xuyên giúp đỡ những người nghèo khổ cơ nhỡ. Gia đình ông cũng lập ra một quỹ từ thiện để giúp người.
Ông cũng không quên thuở hàn vi. Ông tìm lại anh phu vác lúa một thời đã trấn lột ông và bố trí cho anh này làm sếp chỉ huy nhóm vác lúa. Tính vị tha và rộng lượng đó dường như đã góp phần giúp ông thành công trên thương trường...
Tuong pha san, ai ngo “ong trum” Sai Gon thang lon-Hinh-2
Chợ Bình Tây. 
Với tài kinh doanh của ông, người Pháp hết sức khâm phục. Ông nghiễm nhiên trở thành "ông trùm lúa gạo", giàu có và có thế lực nhất thời bấy giờ. Người Pháp còn phải nhờ ông mua lại các doanh nghiệp đang trên bờ vực phá sản. Cũng nhờ vậy mà sản nghiệp ông càng lúc càng phình to ra.
Do quá giàu, ông xoay qua đứng bảo lãnh cho các con nợ của ngân hàng Đông Dương. Mỗi lần xin chữ ký bảo chứng, các con nợ ngân hàng phải chịu cho ông một khoản hoa hồng theo quy định.
Chợ Bình Tây
Sau những thành công vượt bậc, ông Quách Đàm nghĩ ngay đến việc xây dựng một ngôi chợ. Ông tiến hành mua một khu đất vốn là ruộng hoang hóa có diện tích 17.000 m2 ở vùng Bình Tây. Trong tính toán của ông, ngôi chợ này phải là chợ lớn nhất miền Nam.
Vì thế, ông đã nhờ đến các kiến trúc sư thiết kế. Ông yêu cầu kỹ thuật xây dựng chợ xây theo kỹ thuật phương Tây với bê tông cốt thép, nhưng hình dáng phải mang đậm nét kiến trúc Trung Quốc.
Tuong pha san, ai ngo “ong trum” Sai Gon thang lon-Hinh-3
Giữa chợ có một công viên nhỏ, nơi đặt tượng đồng Quách Đàm (Ảnh Zing). 
Tháp giữa vươn cao có 4 mặt đồng hồ, có “lưỡng long tranh châu”, 4 góc có 4 chòi nhỏ, toàn bộ mái chợ lợp bằng ngói âm dương theo kiểu chồng lớp để tạo sự thông thoáng.
Quách Đàm cũng yêu cầu, riêng mái ở các góc có nét uốn lượn theo kiểu chùa chiền phương Đông. Chính giữa chợ có khoảng sân trời rộng rãi, thoáng mát.
Theo dự tính, ông sẽ tạo ra nhiều gian hàng rập khuôn nhau rồi mời các tiểu thương vào buôn bán. Dọc theo bên ngoài chợ là 2 dãy nhà theo kiểu phố buôn bán và vận động động chính quyền dời Chợ Lớn về đây.
Năm 1927, mọi khâu chuẩn bị đã hoàn tất chỉ còn chờ ngày khởi công thì bất ngờ Quách Đàm qua đời. Việc xây dựng chợ phải đến năm sau mới thực hiện và hoàn tất vào năm 1930.
Ngôi chợ mới, ban đầu mang tên chợ Bình Tây nhưng người đời quen gọi là chợ Quách Đàm hay là Chợ Lớn Mới.
Tên Chợ Lớn Mới có được từ sự cố Chợ Lớn cũ nằm tại vị trí Bưu Điện Chợ Lớn ngày nay bị thiêu rụi trong một trận hỏa hoạn. Chợ mới được xây lên cách chợ cũ không xa nhưng lại to lớn và qui mô hơn nên được nhiều người gán cho cái danh "Chợ Lớn Mới".
Sau đó, bên trong chợ gia đình ông và tiểu thương đã cùng nhau lập nơi thờ cúng ông ở giữa chợ. Hàng ngày, những người buôn bán tại chợ thường lui tới đốt nhang khấn vái ông một cách thành kính...

Hình ảnh khủng khiếp về trận An Lộc 1972 (2)

(Kiến Thức) - Trận An Lộc 1972 là một trong những trận đánh có quy mô lớn nhất và ác liệt nhất thời chiến tranh Việt Nam.

Hinh anh khung khiep ve tran An Loc 1972 (2)
 Một ngôi nhà được từng được sử dụng làm vị trí chiến đấu trong trận An Lộc. Loạt ảnh do phóng viên người Pháp Bruno Barbey của hãng thông tấn Magnum thực hiện. Ảnh: Magnumphotos.com.

Người đàn ông “từ quỷ hóa thành thần” được thờ nhiều nhất ở TQ

Theo số liệu thống kê đáng tin cậy, miếu thờ “thần minh, thánh hiền” có số lượng lớn nhất ở Trung Quốc là miếu Quan Đế.

Nguoi dan ong “tu quy hoa thanh than” duoc tho nhieu nhat o TQ
Tượng Quan Thánh. 
Miếu được xây để thờ Quan Vũ – một trong Ngũ Hổ tướng Thục Hán thời Tam Quốc (còn được gọi là Võ Miếu, Võ Thánh miếu, Hiệp Thiên cung, Ân Chúa Công miếu…) kể từ sau khi hoàng đế nhà Minh sắc phong Quan Vũ làm “Quan Thánh Đế quân”. Quan Đế miếu còn có ở khắp các nước xung quanh bị ảnh hưởng bởi “Văn hóa chữ Hán” như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Malaysia, Singapore và một số nước Đông Nam Á khác.
Rất nhiều người tôn thờ Quan Vũ bắt nguồn bởi những điều La Quán Trung viết về ông trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, khắc họa ông thành một vị anh hùng giỏi giang tài ba, trung nghĩa gan dạ với những tình tiết ly kỳ như “chém Hoa Hùng chén rượu hãy còn nóng”, “qua 5 cửa ải chém 6 tướng”, “đơn đao phó hội”, “vì nghĩa tha Tào Tháo”…
Hình tượng nhân nghĩa từ “Tam Quốc”
Quan Vũ từ người biến thành thần trước hết bởi những phẩm chất của ông; nhưng việc 3 tôn giáo lớn Nho, Phật, Đạo tranh giành ông của cũng đã nâng cao địa vị của ông và đưa ông lên bệ thần. Quan Vũ là người thích đọc “Xuân Thu”, mà bộ “Xuân Thu” do Khổng Tử viết chủ yếu nhằm khuyên bảo mọi người biết giữ bổn phận, không nên làm những điều vượt khuôn khổ.
Sống vào cuối thời kỳ Đông Hán, từ nhỏ Quan Vũ đã được hun đúc bởi tư tưởng Nho giáo chính thống. Trong quá trình giúp đại ca Lưu Bị xây dựng thiên hạ nhà Thục Hán, những biểu hiện trung nghĩa của Quan Vũ đã khiến hình tượng của ông khắc sâu trong lòng dân chúng.
Một số biểu hiện phẩm chất trung nghĩa của Quan Vũ được mô tả trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, như: Trong trận Hạ Bì, do thế lực hai bên chênh lệch quá lớn, Quan Vũ bị bại trận. Để bảo vệ vợ con Lưu Bị. Quan Vũ buộc phải đầu hàng Tào Tháo. Tào Tháo rất thích tài năng của ông nên phong làm “Hán Thọ Đình hầu” và hậu đãi “3 ngày một tiệc nhỏ, 5 ngày một tiệc lớn” lại còn thỉnh thoảng tặng vàng thưởng bạc; nhưng Quan Vũ lòng không chút dao động.
Quan Vũ “Thân tại Tào doanh, tâm tại Hán”, đã giao hẹn ba điều với Tào Tháo: Một, chỉ hàng Hán, không hàng Tào; hai: phải dùng lễ đối đãi tử tế với hai chị dâu; ba: nếu khi nào biết Lưu Bị ở đâu sẽ lập tức tìm đến. Tuy điều kiện rất hà khắc, nhưng là người biết trọng nhân tài nên Tào Tháo vẫn đáp ứng với hy vọng ngày nào đó Quan Vũ sẽ nghĩ lại vì cảm kích trước tình cảm của mình.
Đại ca bỏ chạy bất chấp an nguy của vợ con và ông, trong khi Tào Tháo lại có ơn cứu mạng; mặc dù vậy trong lòng Quan Vũ vẫn chỉ coi Lưu Bị là chủ, điều này khiến người đời kính phục sự trung nghĩa của ông. Về sau, khi nghe được tin về Lưu Bị, Quan Vũ đã kiên quyết bỏ lại vàng bạc, châu báu, dẫn theo 2 chị dâu qua 5 cửa ải chém 6 tướng, trèo đèo vượt suối đi gặp đại ca của mình.
Trong trận Xích Bích, Tào Tháo bại trận phải chạy trốn theo đường Hoa Dung, Quan Vũ tuy trước khi xuất phát đi trấn giữ Hoa Dung đã lập bản cam kết sẽ giết Tào Tháo, nhưng khi gặp Tào Tháo bại trận chạy đến, bất giác nghĩ lại những điều đối đãi tốt đẹp của Tháo với mình khi trước, nên bất chấp nguy cơ bị chém đầu vì vi phạm quân lệnh, vẫn thả cho Tào Tháo đi qua để trả lại ơn nghĩa cưu mang.
Chuyện “có ơn tất báo” chỉ là chuyện nhỏ trong vô số hành vi “nghĩa” của Quan Vũ, nhưng đã phản chiếu hình tượng lớn lao của ông. Chính vì sự trung nghĩa như thế, Quan Vũ đã chiếm được tình cảm yêu mến, kính phục của dân chúng.
Bi kịch từ tính tình ngạo mạn, cố chấp
Xuất thân trong gia đình nhà nông làm nghề rèn ở Sơn Tây, nhưng Quan Vũ thích đọc “Xuân Thu” lại ham luyện võ. Năm 18 tuổi, cha mẹ cưới vợ cho, sau 1 năm đã sinh hạ con trai Quan Bình. Quan Vũ yên ổn, hài lòng với việc giúp cha rèn đồ và trông coi cửa hàng bán đồ sắt. Năm ông 20 tuổi, một hôm có tên ác bá họ Lã tìm đến đòi nộp tiền bảo kê. Thấy một kẻ ngang ngược đến vô cớ đòi nộp tiền, Quan Vũ rất tức.
Tuổi trẻ đang hăng, không chịu thua kẻ bạo ngược, Quan Vũ tuyên bố nhà mình không cần ai bảo vệ, từ chối nộp tiền. Kẻ ác bá xông vào đánh, vốn tinh thông võ nghệ, Quan Vũ đâu dễ chịu để bị bắt nạt, liền đấm cho hắn một cú, nào ngờ chỉ một cú đấm đã đưa hắn đi chầu Diêm Vương.
“Sát nhân đền mạng, vay nợ trả tiền”, để giữ tính mạng con, cha mẹ Quan Vũ phải để ông bỏ nhà đi lánh nạn. Trên đường bỏ trốn, Quan Vũ gặp được Lưu Bị và Trương Phi – những người anh em tri kỷ gắn bó cả đời. Ba người mới gặp đã như thân quen từ trước, đến Đào Viên kết nghĩa anh em, đồng tâm hiệp lực cùng nhau mở ra sự nghiệp. Sau quá trình Nam chinh Bắc chiến, Tây nhập Hán Xuyên, họ lập ra được nước Thục đối kháng với Tào Ngụy.
Con người ta có khi mọi chuyện quá thuận lợi, dễ sinh ra ngạo mạn, cố chấp. Quan Vũ là người như thế. Sau khi chém Nhan Lương giải vây thành Bạch Mã, qua 5 cửa ải chém 6 tướng, một mình băng ngàn dặm, mượn nước dìm 7 đạo quân…Quan Vũ trở nên như đại anh hùng được thần tiên phò trợ.
Nguoi dan ong “tu quy hoa thanh than” duoc tho nhieu nhat o TQ-Hinh-2
Tranh thờ Quan Công.