5 vị quân sư tài giỏi nhất lịch sử Trung Hoa cổ đại

Họ điều là những vị quân sư tài giỏi bậc nhất trong lịch sử Trung Hoa cổ đại khi sở hữu tài nghệ và mưu lược hơn người, khiến đời sau muôn phần khâm phục.

KHƯƠNG TỬ NHA (1156 – 1017 TCN)
Lịch sử Trung Hoa đã chỉ ra rằng, Khương Tử Nha là nhà chính trị quân sự kiệt xuất. Vị quân sư tài giỏi này sống ở triều đại nhà Chu, làm đến chức Thái sư. Ông phò tá Chu Vũ Vương diệt nhà Thương và gầy dựng nên nước Chu.
Dân gian Trung Quốc lưu truyền câu nói rằng “Khương Thượng trước, Tôn Tẫn sau, năm trăm năm trước Gia Cát Lượng, năm trăm năm sau Lưu Bá Ôn”.
5 vi quan su tai gioi nhat lich su Trung Hoa co dai
 
Đã có nhiều truyền thuyết được lưu truyền xung quanh cuộc đời ông trước khi ông theo phò tá nhà Chu, hầu hết đều đề cập tới việc ”Lã Vọng là con cháu của một dòng họ quý tộc đã sa sút cuối đời Thương, thời niên thiếu được hấp thụ nền giáo dục dành riêng cho giới quý tộc nên có học vấn uyên bác. Sau vì lận đận nhiều trong cuộc sống, không được vua Trụ trọng dụng, ông phiêu bạt khắp nước và rồi về ngồi câu cá bên Sông Vị để chờ thời”. Điển tích này là đề tài cho bức tranh ông già buông cần câu bên Sông Vị. Sau Chu Văn Vương đi tới, gặp gỡ và đàm đạo, phát hiện ra ông là nhân tài xuất chúng liền đón về, phong làm Thái sư – chức quan cao nhất cả về quân sự và chính trị đầu đời Chu.
TÔN TẪN (Thế kỷ IV TCN)
Tôn Tẫn người nước Tề, là một quân sư, một nhà chỉ huy quân sự nổi tiếng thời Chiến Quốc. Tương truyền, Tôn Tẫn là cháu của Tôn Tử, cùng với Bàng Quyên là học trò môn binh pháp của Quỷ Cốc Tử . Sau khi Bàng Quyên làm tướng nhà Ngụy, liền đố kỵ với tài của Tôn Tẫn mà lừa gạt ông đến nước Ngụy rồi vu tội cho, khiến Tôn Tẫn bị chặt xương đầu gối (tẫn hình).
5 vi quan su tai gioi nhat lich su Trung Hoa co dai-Hinh-2
 

Chữ Tẫn trong tên của ông xuất phát từ hình phạt này mà ra. Sau này ông được sứ giả nước Tề đưa về Tề Quốc. Tướng Tề là Điền Kỵ phục tài của Tôn Tẫn nên đã tâu với Tề Uy Vương phong ông làm thầy. Thời ấy, Tề Uy Vương đang tranh chấp cùng Ngụy nên muốn thu nhận hiền tài, coi trọng tài năng quân sự của Tôn Tẫn mà thu nhận ông làm quân sự. “Tôn Tẫn binh pháp” của ông là kế thừa tư tưởng quân sự của Tôn Vũ và là một trong các quyển binh pháp nổi tiếng ở Trung Quốc.
TRƯƠNG LƯƠNG (250 – 186 TCN)
Trương Lương tự là Tử Phòng, là mưu thần của Hán Cao Tổ Lưu Bang, là nhà quân sự, chính trị kiệt xuất thời Tần mạt, Hán sơ kỳ. Ông là người có công lớn trong khai quốc Hán Vương triều. Trương Lương được xưng là một trong ba người tài giỏi xuất chúng thời đầu nhà Hán (Trương Lương, Hàn Tín, Tiêu Hà).
5 vi quan su tai gioi nhat lich su Trung Hoa co dai-Hinh-3
 

Do có công lao trong chiến tranh Hán – Sở, Trương Lương được Lưu Bang (tức Hán Cao Tổ) hết sức kính trọng và đánh giá: ”Bàn định mưu lược trong màn trướng, quyết định thắng lợi ngoài ngàn dặm, ta không bằng Trương Lương” và cho ông được chọn lấy một vùng có ba vạn hộ ở đất Tề để phong, nhưng Trương Lương từ tạ, chỉ xin nhận phong ở đất Lưu – một vùng nhỏ hẹp hơn nhiều là nơi mà Trương Lương gặp Lưu Bang ngày trước. Hán Cao Tổ liền phong ông là Lưu hầu.
Tài năng của Trương Lương trong việc phò tá Lưu Bang dựng nên nghiệp nhà Hán đã tỏ rõ ông có tầm nhìn chính trị xa rộng, năng lực phân tích tâm lý tinh tế, nhãn quan chiến lược sắc sảo và tài phân tích, thu phục lòng người khôn khéo.
Những năm cuối đời, Trương Lương sống như một ẩn sĩ. Khi viết Sử ký, nhà sử học nổi tiếng Tư Mã Thiên đã xếp những câu chuyện về ông vào phần Thế gia là phần dành cho những nước chư hầu, những người có địa vị lớn trong giới quý tộc, những nhân vật nổi tiếng như Trần Thiệp (tức Trần Thắng) hay Khổng Tử, trong khi chỉ xếp truyện về Hàn Tín vào phần Liệt truyện (những người hoặc sự kiện kém quan trọng hơn).
GIA CÁT LƯỢNG (181 – 234)
Gia Cát Lượng (181 – 234), tự là Khổng Minh, hiệu Ngọa Long tiên sinh. Ông là quân sư xuất chúng của Lưu Bị nước Thục, thời hậu Hán. Gia Cát Lượng quê tại Dương Đô (nay thuộc huyện Nghi Nam, tỉnh Sơn Đông). Ông là nhà quân sự, chính trị, tản văn và nhà phát minh trứ danh trong lịch sử Trung Hoa với các chiến thuật quân sự nổi tiếng như Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu gỗ ngựa máy).
5 vi quan su tai gioi nhat lich su Trung Hoa co dai-Hinh-4
 

Gia Cát Lượng được Lưu Bị mời ra làm quan, theo Lưu Bị trên khắp các chiến trường, thành lập Thục Hán và được phong làm thừa tướng. Năm 223 sau khi Lưu Bị chết, Lưu Thiền kế vị hoàng đế Thục Hán, Gia Cát Lượng được phong tước vị làm Võ Vương Hầu, trở thành người lãnh đạo quân sự chính trị quan trọng tối cao của Thục Hán. Sau khi qua đời, ông được phong làm Trung Võ Hầu nên người đời sau thường gọi ông là Gia Cát Võ Hầu hay Võ Hầu.
VƯƠNG MÃNH (325 – 375)
Vương Mãnh tên chữ là Cảnh Lược, người Bắc Hải thời Đông Tấn. Ông là nhà chính trị, nhà quân sự nổi danh của thời kỳ Thập lục quốc, thừa tướng của nước Tiền Tần, đại tướng quân, phụ tá Phù Kiên bình định thiên hạ, thống nhất phương bắc.
5 vi quan su tai gioi nhat lich su Trung Hoa co dai-Hinh-5
 
Thuở nhỏ, Vương Mãnh sống trong cảnh nghèo khó nhưng yêu thích học tập, đọc sách binh pháp. Ông là người cẩn trọng, khí độ bất phàm, không câu nệ tiểu tiết, cũng hiếm khi hòa hợp với người khác, ít kết giao nên bị các học giả thời ấy khinh thường. Tuy nhiên, Vương Mãnh không vì thế mà cảm thấy buồn bã.

Tài kém Gia Cát Lượng nhưng tại sao Tư Mã Ý vẫn thắng?

Cùng với Gia Cát Lượng, Tư Mã Ý là một nhân vật nổi tiếng đa mưu, túc trí trong lịch sử thời Tam Quốc.

Gia Cát Lượng thắng lớn ở Kiếm Các, giết được đại tướng Trương Hợp của quân Nguỵ ở Mộc Môn và suýt chút nữa thì đã lấy mạng được bố con Tư Mã Ý nhờ đòn hoả công huyền thoại của mình, nếu không nhờ trời giúp. Thật đúng là “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, Tư Mã Ý may mắn thoát chết, lập tức bỏ chạy về bờ Nam sông vị Thuỷ hạ trại cố thủ không ra. Lúc này Khổng Minh nói: “Ta hôm nay đi săn, định bắt một con ngựa (ý chỉ Tư Mã Ý) lại bắn nhầm phải con nai (chỉ Trương Hợp).“
Tai kem Gia Cat Luong nhung tai sao Tu Ma Y van thang?
(Ảnh minh hoạ: Internet) 
Tháng 4 năm 234, quân Thục hành quân đến huyện My. Lúc này Tư Mã Ý thống lĩnh đã đến bờ Nam sông Vị Thủy. Trong chiến dịch lần này, chỉ huy quân Ngụy là Tư Mã Ý một lần nữa biết rằng vấn đề của quân Thục chính là tiếp lương, và ra lệnh cho Tư Mã Chiêu giữ quân phòng thủ đợi quân địch mệt mỏi. Tư Mã Ý khai thác thế yếu của quân Thục là mới hành quân từ xa đến, vận chuyển lương thực khó khăn, quyết định thủ để công, nhờ yếu tố thời gian làm cho quân Thục phải tan rã. Tư Mã Ý vẫn sử dụng chiến thuật cố thủ không ra đánh.
Khổng Minh dẫn một toán quân đóng ở gò Ngũ Trượng đã nhiều lần sai người ra khiêu chiến, quân Ngụy nhất định không ra. Tư Mã Ý áp dụng kế sách đóng cổng thành không chịu ra giao chiến, mặc cho quân Thục khiêu khích. Tư Mã Ý biết rằng quân Thục hành quân từ xa đến, thì việc tiếp tế chi viện sẽ hết sức khó khăn, chỉ cần giữ vững thế trận không ra giao chiến trong một thời gian dài, thì binh lực của quân Thục sẽ dần dần bị hao tổn, khi đó quân Ngụy sẽ chớp thời cơ thuận lợi đánh một trận, giành thắng lợi quyết định.
Tai kem Gia Cat Luong nhung tai sao Tu Ma Y van thang?-Hinh-2
Quân Nguỵ án binh bất động, chờ thời phản công. (Ảnh minh hoạ: Internet) 
Đây gọi là lấy ‘tĩnh chế động’, không đánh khi kẻ địch đang có lợi thế, chỉ đánh khi quân mình có lợi thế. Đợi thời cơ đến sẽ có thể ‘chuyển bại thành thắng’, tuyệt đối không manh động làm hỏng đại sự, đó chính là cái tài của người dùng binh vậy.
Gia Cát Lượng biết rõ tác dụng lợi hại của chiến thuật phòng thủ trường kỳ đó, liền cử quân sĩ đến dưới chân thành mắng nhiếc quân Ngụy rất thậm tệ, nhằm chọc tức Tư Mã Ý, hi vọng ông ta xuất quân ra đánh nhau với quân Thục, nhưng quân Ngụy giả vờ như không nghe thấy, tiếp tục án binh bất động dù nhiều lần bị Gia Cát Lượng khiêu chiến, Tư Mã Ý không cho quân tấn công.
Đến lúc này Khổng Minh mới nghĩ ra một kế, bèn lấy một cái khăn, cái yếm và đồ trắng của đàn bà, đựng vào một cái hòm, rồi viết thư, sai người đưa đến trại Ngụy.
Các tướng không dám giấu giếm, dẫn người đưa thư vào ra mắt Tư Mã Ý. Ý sai mở hòm ra xem, thấy có yếm áo đàn bà và một phong thư. Trong thư nói rằng:
“Trọng Đạt đã làm đại tướng, thống lĩnh quân Trung Nguyên, không dám mặc giáp cầm gươm, để quyết sống mái mà chịu ngồi núp ở trong tối trong hang, để lánh lưỡi đao mũi tên, thế thì khác gì đàn bà? Nay sai người đưa khăn yếm quần áo trắng của đàn bà đến, nếu không dám ra đánh, thì phải lạy hai lạy mà nhận lấy; nếu còn biết xấu hổ, có chí khí người con trai, thì phải phê vào giấy này, y hẹn ra giao chiến“.
Tư Mã Ý xem xong, trong bụng đầy căm giận, nhưng cũng gượng cười nói rằng: “Khổng Minh coi ta như đàn bà ru?” Nhưng rồi, ông phát hiện ra đây chính là kế khích tướng, chấp nhận nhịn nhục để không trúng kế Khổng Minh. Liền chịu nhận đồ ấy, mở ra mặc trước ba quân và rất lấy làm thích thú, rồi nhờ gửi lời cám ơn đến sự quan tâm của Thừa tướng.
Các viên tướng Ngụy tức điên, vì xưa nay người xưa có câu: “Sĩ khả sát, bất khả nhục” (Kẻ sĩ thà bị chết chứ không chịu nhục). Rõ ràng bức thư đầy những lời lăng mạ đó đã khiến cho Tư Mã Ý tức giận, rồi khi mặc chiếc áo “sặc sỡ” sắc màu của đàn bà kia đã là quá bị vũ nhục lần nữa rồi, nhưng ông lại có thể nhanh chóng vượt qua khảo nghiệm trọng đại này, điềm nhiên vui cười khiến cho sứ giả Thục quốc chết lặng một lúc, vì thế mà ông có thể làm được việc lớn về sau, đặt nền móng vững chắc từng bước cho hai con xây dựng nhà Tây Tấn.
Trong “Thượng thư”, Chu Thành Vương khuyên bảo quân rằng: “Tất hữu nhẫn, kỳ nãi hữu tể; hữu dung, đức nãi đại.” (Tạm dịch: Nhất định phải nhẫn nhịn mới có thể thành công, có thể khoan dung với người thì đạo đức tu dưỡng mới có thể nâng cao lên). Khổng Tử nói: “Tiểu bất nhẫn, tắc loạn đại mưu” (Tạm dịch: Không nhịn được điều nhỏ nhặt, sẽ làm hỏng chuyện đại sự), “quân tử vô sở tranh” (Tạm dịch: Người quân tử không tranh gì cả)…
Nhẫn không chỉ là thể hiện ở sự nhượng bộ, mà còn thể hiện ở chỗ khi bị lăng nhục vẫn có thể chịu nhận mà không động tâm. Chỉ riêng chữ Nhẫn (忍) đã biểu đạt được điều này. Bên trên của Nhẫn (忍) là chữ đao (刀) và còn thêm một điểm để biểu thị sự sắc bén của vết đao, bên dưới của Nhẫn (忍) lã chữ Tâm (心).
Ý tứ ở đây chỉ việc dùng một đao sắc bén đâm vào trái tim thì đương nhiên là đau. Người bình thường bị như vậy phải đau đớn quằn quại lăn qua lăn lại trên mặt đất. Nhưng chữ Tâm ở bên dưới chữ Nhẫn kia vẫn đứng vững yên tĩnh. Biểu hiện không động tâm này chính là hình ảnh lột tả được nội hàm của Nhẫn.
Trong lịch sử cũng có vài nhân vật vì nhẫn được mà hoàn thành đại nghiệp như điển cố nổi tiếng: Hàn Tín chịu nhục chui háng, qua đó lấy được một nửa giang sơn cho nhà Hán, lưu tiếng thơm muôn thuở. Còn Việt Vương Câu Tiễn nếm mật nằm gai trong suốt 10 năm, chịu bao tủi nhục cay đắng mới có ngày phục quốc…
Qua đây có thể thấy được trình độ và cảnh giới tư tưởng vô cùng khác biệt của Tư Mã Ý với các tướng cấp dưới, những vị tướng “Sĩ khả sát, bất khả nhục“, còn Ý thì có tâm Đại Nhẫn thật quảng đại.
Tư Mã Ý trọng đãi sứ thần của quân Thục, không bàn luận các vấn đề quân sự với vị sứ giả được cử đến để làm nhiệm vụ này, thay vào đó lại hỏi han về những công việc của Gia Cát Lượng, thăm dò tin tức, lợi dụng mọi cơ hội để có thể khai thác thông tin từ đối phương.
Khi biết rằng Gia Cát Lượng đang lo nghĩ về chuyện thiếu lương thực, Tư Mã Ý liền phán đoán rằng Gia Cát Lượng chẳng còn có thể sống được bao lâu nữa, càng củng cố quyết tâm giữ vững, không ra đánh, coi đó là sách lược để diệt Thục. Và cũng qua câu nói với sứ giả đó, muốn dùng đòn tâm lý để gửi đến Gia Cát Lượng rằng: “Ngày ông chết không còn xa nữa đâu, tôi sẽ chờ cho tới tận lúc đó, ông có hiểu không hả Lượng?”
Sứ giả từ về, đến gò Ngũ Trượng ra mắt Khổng Minh, thuật lại việc Tư Mã Ý chịu nhận khăn áo đàn bà, và các lời hỏi han. Khổng Minh than rằng: “Ý thực là biết ta!” Đây đúng là một cặp đôi tri kỷ, rất hiểu ý nhau, qua nhiều lần đối trận, càng đánh càng chứng tỏ: không ai hiểu Ý bằng Gia Cát Lượng, và ngược lại, không ai hiểu Lượng bằng Tư Mã Ý.
Các tướng Ngụy thấy Khổng Minh đưa khăn áo đàn bà cho Tư Mã Ý. Ý chịu nhận, không dám ra đánh. Các tướng cùng vỗ bụng căm tức, vào trướng bẩm rằng: “Chúng tôi cùng là danh tướng nước Ngụy, chịu sao được người Thục sỉ nhục thế này? Vậy xin ra đánh để quyết một trận sống mái.”
Ý nói: “Ta có phải muốn chịu nhục đâu, bởi vì thiên tử giáng chiếu, sai giữ vững không cho ra đánh, nếu ta khinh động, thì trái quân mệnh mất.” Các tướng bực dọc không bằng lòng.
Ý nói: “Các ngươi nếu muốn đánh, đợi ta tâu với thiên tử, rồi sẽ đồng lực ra đánh giặc, được chăng?” Chúng tôi xin vâng lời. Ý sai sứ mang biểu đến Hợp Phì tâu với Ngụy chủ. Biểu rằng:
“Thần tài nhỏ trách nhiệm to, cúi đột chiếu chỉ sai thần giữ vững không đánh, để đợi quân Thục tự nhiên phải tan. Nhưng nay Gia Cát Lượng sai người đưa khăn yếm, coi thần như đàn bà, thần lấy làm sỉ nhục lắm. Thần kính tâu trước vời bệ hạ, sớm tối xin liều một trận đại chiến để báo ơn triều đình, mà rửa cái xấu hổ cho ba quân. Thần cảm kích không biết ngần nào“.
Tào Tuấn xem xong, hỏi các tướng rằng: “Tư Mã Ý trước xin giữ vững không đánh, nay lại dâng biểu xin đánh là cớ làm sao?” Vệ uý là Tân Tỷ tâu rằng: “Tư Mã Ý vốn không có bụng muốn đánh, đây là Gia Cát Lượng sỉ nhục, các tướng căm tức, cho nên dâng biểu lên, là có ý muốn cầu chiếu chỉ để trấn bụng các tướng đấy thôi.”
Tuấn lấy làm phải, sai Tân Tỷ cầm cờ tiết đến trại Vị Bắc, truyền lời dụ không được ra đánh. Nếu ai dám nói đến sự đánh, thì ghép vào tội trái chiếu chỉ nhà vua. Các tướng đều phải tuân theo. Ý bảo với Tân Tỷ rằng: “Ông thực là biết bụng tôi lắm!”
Bởi thế, trong quân nói truyền đi, ai ai cũng biết. Các tướng Thục nghe tin ấy, vào bẩm với Khổng Minh. Khổng Minh cười rằng: “Đó là Tư Mã Ý trấn bụng ba quân đó.”
Khương Duy hỏi: “Thừa tướng sao lại biết là thế?” Khổng Minh nói: “Ý vốn không dám đánh, xin đánh là thị oai với chúng đó thôi. Có câu rằng: “Tướng ở ngoài, dù vua sai có điều không nghe cũng được”. Lẽ đâu cách xa nghìn dặm, mà phải xin lệnh đánh bao giờ? Đây vì Tư Mã Ý nhân các tướng tức giận, cho nên mượn ý Tào Tuấn để trấn bụng chúng và truyền lời ấy ra, để quân ta sinh trễ nải đó thôi.”
Đây là kế “mượn gió để bẻ măng”, không trực tiếp ra tay mà mượn tay người khác (vua) để trấn an binh sĩ, từ đó vẫn vừa được lòng quân, mà lại giữ cho chiến tuyến tiếp tục ổn định để chờ thời thế thay đổi.
Tai kem Gia Cat Luong nhung tai sao Tu Ma Y van thang?-Hinh-3
Gia Cát Lượng qua đời trong doanh trại, đây là thông tin cơ mật trong quân Thục. 

Ngôi làng Bát Quái kỳ bí của hậu duệ Khổng Minh

Ngôi làng Bát Quái Chu Cát thuộc Triết Giang, Trung Quốc ngày nay được cho là xây dựng theo "Bát Trận đồ" của Khổng Minh với nhiều đặc điểm độc đáo.

Ngoi lang Bat Quai ky bi cua hau due Khong Minh
Những ai yêu thích nhân vật Khổng Minh trong "Tam Quốc diễn nghĩa" của La Quán Trung chắc hẳn đều biết tới "Bát trận đồ" - đỉnh cao nghệ thuật quân sự do Khổng Minh sáng tạo ra. Ảnh: Baike.