Chính thức 2 ngày Quốc tang nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh

Sáng nay, 3/5, tang lễ Đại tướng Lê Đức Anh - nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ chính thức được cử hành trọng thể theo nghi thức Quốc tang.
Đại tướng Lê Đức Anh - Nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mất đi là một tổn thất to lớn đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Để tỏ lòng tưởng nhớ Đại tướng Lê Đức Anh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết định tổ chức tang lễ đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh với nghi thức Quốc tang.
Ban lễ tang Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng ban.
Chinh thuc 2 ngay Quoc tang nguyen Chu tich nuoc Le Duc Anh
Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh - Nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 
Theo ban Tổ chức, Lễ viếng Đại tướng Lê Đức Anh bắt đầu từ 7h đến 11h, ngày 3/5/2019, tại Nhà Tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội.
Lễ truy điệu Đại tướng Lê Đức Anh từ 11h cùng ngày 3/5/2019, tại Nhà Tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Lễ an táng từ 17h cùng ngày 3/5/2019 tại Nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh.
Cùng thời gian này, tại Hội trường Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh, tại Hội trường Uỷ ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế cũng tổ chức Lễ viếng, Lễ truy điệu Đại tướng Lê Đức Anh.
Trong hai ngày Quốc tang Đại tướng Lê Đức Anh (3/5 và 4/5), các công sở, các nơi công cộng treo cờ rủ và ngừng các hoạt động vui chơi giải trí. 

Tóm tắt Tiểu sử Đại tướng Lê Đức Anh - Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đồng chí Lê Đức Anh (bí danh Nguyễn Phú Hòa; Sáu Nam), sinh ngày 1/12/1920; quê quán: Xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế; thường trú tại số nhà 5A Hoàng Diệu, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Tham gia hoạt động cách mạng năm 1937; vào Đảng tháng 5/1938.
Năm 1937, tham gia phong trào dân chủ ở Phú Vang (tỉnh Thừa Thiên Huế); tháng 5/1938, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1939 - 1943, địch khủng bố mạnh, mất liên lạc, đồng chí vào Hội An, Đà Lạt, Lộc Ninh, Thủ Dầu Một tham gia hoạt động trong các hội Ái hữu.
Tháng 3/1944, đồng chí bắt liên lạc được với tổ chức và được giao nhiệm vụ hoạt động trong các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh, Quảng Lợi, Xa Can, Xa Cát.
Đầu năm 1945, đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn, chuẩn bị đấu tranh võ trang.
Tháng 8/1945, đồng chí được phân công phụ trách chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở các đồn điền cao su và hai huyện Hớn Quản, Bù Đốp, tỉnh Bình Phước. Thời gian này, đồng chí tham gia Quân đội, chỉ huy giành chính quyền ở Lộc Ninh, tham gia tỉnh uỷ lâm thời, phụ trách quân sự phía Bắc tỉnh Thủ Dầu Một.
Tháng 11/1946 đến tháng 10/1948, làm Chính trị viên Chi đội 1 (sau là Trung đoàn 301), Trung đoàn Uỷ viên, Tỉnh uỷ viên Thủ Dầu Một.
Tháng 10/1948 đến tháng 12/1948, làm Tham mưu trưởng Khu 7, Quân khu Uỷ viên.
Tháng 1/1949 đến tháng 10/1949, làm Tham mưu trưởng Khu 8, Quân khu Uỷ viên.
Tháng 11/1949 đến tháng 5/1950, làm Tham mưu trưởng Quân khu Sài Gòn - Chợ lớn, Quân khu Uỷ viên.
Tháng 6/1950 đến tháng 12/1950, làm Tham mưu trưởng Khu 7.
Tháng 1/1951, làm Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ.
Tháng 5/1955, được bổ nhiệm giữ chức Phó Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 10/1957, được bổ nhiệm giữ chức Cục phó thứ nhất Cục Quân lực, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam .
Tháng 12/1958, được Đảng, Nhà nước phong quân hàm Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam .
Tháng 8/1961, được bổ nhiệm giữ chức Cục trưởng Cục Quân lực, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam .
Tháng 8/1963, được bổ nhiệm giữ chức Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam .
Tháng 8/1965, được bổ nhiệm giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh miền Nam , Uỷ viên Quân uỷ Miền.
Năm 1968, giữ chức Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam, Uỷ viên Quân ủy Miền.
Năm 1969, giữ chức Tư lệnh Khu 9, Phó Bí thư Khu ủy.
Năm 1974, giữ chức Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam, Ủy viên Quân ủy Miền. Đồng chí được Đảng, Nhà nước thăng quân hàm từ Đại tá lên Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam (tháng 4/1974).
Năm 1975, giữ chức Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam .
Tháng 5/1976, được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân khu 9, Bí thư Quân Khu ủy.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (tháng 12/1976), được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Tháng 6/1978, được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Uỷ viên Thường vụ Quân uỷ Trung ương.
Tháng 1/1981, được Đảng, Nhà nước thăng quân hàm Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam .
Tháng 6/1981, được bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (tháng 3/1982), được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị.
Tháng 12/1984, được Đảng, Nhà nước thăng quân hàm Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam .
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 2/1987, được bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991), tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng.
Tháng 9/1992, tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá IX, đồng chí được bầu giữ chức Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6/1996), đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị, làm Thường vụ Bộ Chính trị.
Tháng 12/1997, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư khoá VIII, đồng chí xin thôi tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thôi giữ chức Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng suy tôn làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng đến tháng 4/2001.
Đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khoá IV, V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khoá VII; Uỷ viên Bộ Chính trị các khoá V, VI, VII, VIII; Thường vụ Bộ Chính trị khoá VIII; Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ tháng 9/1992 đến tháng 12/1997); Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng (từ năm 1997 đến tháng 4/2001); Đại biểu Quốc hội các khoá VI, VIII, IX.
Do có công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc, đồng chí được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng; Huân chương Quân công hạng Nhất; Huân chương Chiến công hạng Nhất; Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
Hải Ninh

ĐỘC GIẢ BÌNH LUẬN