Giá cà phê hôm nay ở khu vực Tây Nguyên giảm 100 đồng/kg. Tính chung toàn vùng, giá cà phê dao động trong khoảng 30.300 - 30.900 đồng/kg. Trong đó, giá cà phê tỉnh Lâm Đồng thấp nhất và cao nhất tại Đắk Lắk, theo tintaynguyen.com.
Giá cà phê tại các kho quanh cảng TP HCM không đổi ở mức 32.200 đồng/kg.
Tỉnh
/huyện (khu vực khảo sát) |
Giá thu mua
VNĐ/kg |
LÂM ĐỒNG |
|
— Lâm Hà ROBUSTA |
30.400 |
— Bảo Lộc ROBUSTA |
30.400 |
— Di Linh ROBUSTA |
30.300 |
ĐẮK LẮK |
|
— Cư M'gar ROBUSTA |
30.900 |
— Ea H'leo ROBUSTA |
30.800 |
— Buôn Hồ ROBUSTA |
30.800 |
GIA LAI |
|
— Pleiku ROBUSTA |
30.600 |
— Chư Prông ROBUSTA |
30.500 |
— Ia Grai ROBUSTA |
30.600 |
ĐẮK NÔNG |
|
— Gia Nghĩa ROBUSTA |
30.600 |
— Đắk R'lấp ROBUSTA |
30.500 |
KON TUM |
|
— Đắk Hà ROBUSTA |
30.800 |
HỒ CHÍ MINH |
|
— Arabica |
32.200 |
Giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London đảo chiều giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 3 giảm 9 USD, xuống 1.261 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 5 giảm 5 USD, còn 1.285 USD/tấn, các mức giảm nhẹ. Khối lượng giao dịch duy trì trên mức trung bình.
Trái lại, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York điều chỉnh tăng. Kỳ hạn giao ngay tháng 3 tăng 1,95 cent/lb, lên 100,30 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 5 tăng 1,60 cent/lb, lên 102,10 cent/lb, các mức tăng khá nhẹ. Khối lượng giao dịch duy trì rất cao trên mức trung bình.
Theo báo cáo thị trường cà phê tháng 1/2020 của Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO), tổng sản lượng cà phê khu vực Nam Mỹ niên vụ 2019 – 2020 ước tính đạt 168,71 triệu bao, giảm 0,9%.
|
Giá cà phê hôm nay 11/2: Giảm nhẹ 100 đồng/kg toàn Tây Nguyên. |
Dự kiến sản lượng thu hoạch thấp hơn ở châu Phi và Nam Mỹ, lần lượt giảm 2,3% xuống 18,19 triệu bao và 4,7% xuống 78,33 triệu bao.
Tuy nhiên, ở châu Á và châu Đại Dương, sản lượng ước tính khoảng 50,65 triệu bao, tăng 5,4% trong khi sản lượng từ Mexico & Trung Mỹ ước tính tăng 0,9% lên 21,54 triệu bao.
Theo ICO, xuất khẩu cà phê trong 3 tháng đầu niên vụ 2019 - 2020 của toàn cầu giảm 5,8% xuống 29,01 triệu bao so với 30,78 triệu bao trong cùng kì năm 2018 - 2019.
Trong giai đoạn này, các lô hàng cà phê arabica giảm 10,1% xuống còn 18,28 triệu bao nhưng xuất khẩu robustas tăng 2,7% lên 10,73 triệu bao.
Sự sụt giảm trong xuất khẩu cà phê arabica chủ yếu là do sự sụt giảm các lô hàng của các nước sản xuất và Brazil, lần lượt giảm 13,8% xuống 4,22 triệu bao và 13,3% xuống 9,95 triệu bao.