Theo báo cáo phân tích ngành Ngân hàng của Chứng khoán Yuanta, các ngân hàng Việt Nam đang sử dụng đòn bẩy cao và chịu áp lực huy động vốn. Tăng cường nguồn vốn của các ngân hàng là rất quan trọng đối với sự bền vững của hệ thống tài chính và nền kinh tế Việt Nam.
HDB, MBB và VPB được nới room ngoại lên cao hơn so với mức hiện tại là 30%
Tỷ lệ CAR chung của toàn ngành vào cuối tháng 10, 2022 là 11,7%, cao hơn so với mức yêu cầu tối thiểu của Basel II là 8,0%. Tuy nhiên, tỷ lệ CAR của các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước (NHTMNN) chỉ ở mức 9,0%, cao hơn một chút so với mức yêu cầu tối thiểu 8,0%.
Vì vậy, các NHTMNN sẽ phải huy động thêm vốn để có thể cải thiện “bộ đệm vốn”. Việc này cấp thiết đối với trường hợp của Vietinbank (CTG – Không đánh giá), nhưng hiện tại ngân hàng này khó có thể huy động thêm vốn khi tỷ lệ sở hữu nước ngoài gần như đã được lấp đầy trong bối cảnh room ngoại bị giới hạn.
Rõ ràng, các ngân hàng có vốn Nhà nước đang khát vốn do đây là những ngân hàng có tỷ lệ CAR thấp nhất trong ngành. Điều này cũng được phản ánh qua tỷ lệ Tài sản/Vốn chủ sở hữu Q3/2022, tỷ lệ này tương đối cao tại các ngân hàng có vốn Nhà nước như CTG (16,5x) và BID (21,5x), so với mức trung vị ngành là 13,3x.
Lộ trình giảm tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung và dài hạn được tạm hoãn trong giai đoạn dịch COVID bùng nổ, nhưng mọi thứ đã đi qua. Mức tỷ lệ tối đa giảm xuống còn 34% vào tháng 10/2022 và sẽ tiếp tục giảm còn 30% từ tháng 10/2023.
Do đó, các ngân hàng có thể sẽ cần huy động thêm nguồn vốn trung và dài hạn trong thời gian tới. Yuanta kỳ vọng các ngân hàng sẽ tăng vốn chủ sở hữu, đặc biệt là các ngân hàng vẫn còn room ngoại. Theo như Yuanta được biết, NHNN gần đây đang xem xét việc nới room cho các ngân hàng đã tham gia tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém (như HDB, MBB và VPB) lên cao hơn so với mức hiện tại là 30%, nhưng sẽ không vượt qua mức 49%.
Tuy nhiên, Yuanta không cho rằng việc này sẽ xảy ra trong ngắn hạn do nguồn vốn tại các ngân hàng này thực sự khá vững chắc và sẽ không bị ảnh hưởng đáng kể bởi việc tham gia tái cơ cấu ngân hàng yếu kém.
Tuy nhiên, nếu NHNN xem xét việc nới room lên trên mức 30% (giả sử là 35%), điều đó chắc chắn sẽ giúp cải thiện bộ đệm vốn. Yuanta cho rằng điều này sẽ có lợi cho các ngân hàng đã hết room ngoại như là CTG, với tỷ lệ sở hữu nước ngoài gần đạt 30% và ngân hàng này cũng cần tăng thêm vốn.
Về kế hoạch bán vốn, VPB có kế hoạch sẽ bán 15% cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài và chúng tôi kỳ vọng giao dịch này sẽ hoàn tất vào đầu năm 2023.
VCB cũng có dự kiến bán 6,5% vốn điều lệ cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, nhưng kế hoạch này đã bị trì hoãn trong hai năm qua. Ngân hàng cho biết sẽ tiếp tục triển khai kế hoạch và dự kiến sẽ hoàn thành vào cuối năm 2023 hoặc đầu năm 2024.
Lợi nhuận của các ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp có khả năng giảm mạnh nhất
Theo Yuanta, chất lượng tài sản của ngành vẫn tốt. Yuanta cho rằng tỷ lệ nợ xấu của toàn ngành sẽ tăng nhẹ lên 1,65% (+10 điểm cơ bản YoY) vào năm 2023E, một phần do Thông tư 14/2021/TT-NHNN hết hiệu lực.
Ngoài ra, nợ xấu còn có thể tăng lên do các vấn đề liên quan đến ngành bất động sản, khi các điều kiện thanh khoản bị thắt chặt và thị trường trái phiếu doanh nghiệp bị kiểm soát chặt chẽ. Theo NHNN, dư nợ tín dụng của lĩnh vực BĐS chiếm khoảng 20% tổng dư nợ tín dụng của toàn hệ thống.
Theo quan điểm của Yuanta, lợi nhuận của các ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) thấp có khả năng giảm mạnh nhất.
Các ngân hàng đầu tư nhiều vào trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt là trái phiếu bất động sản (ví dụ MBB: chiếm 7,5% tổng tài sản, NVB: 7,1%, TPB: 7,1%, TCB: 6,5% và VPB: 6,4%) sẽ gặp rủi ro cao hơn so với các ngân hàng có tỷ lệ trái phiếu thấp (ví dụ: ACB: 0%).
Tỷ lệ trái phiếu doanh nghiệp của MBB chiếm 7,5% tổng tài sản tính đến Q3/2022, đây là tỷ lệ cao nhất trong ngành. Tuy nhiên, MBB vẫn là một trong những lựa chọn hàng đầu của Yuanta nhờ vào nền tảng tài chính vững chắc (như có lợi thế về chi phí vốn), niềm tin của Yuanta vào ban lãnh đạo, và định giá cực kỳ hấp dẫn. Tỷ lệ trái phiếu cao có thể là một lo ngại đối với lợi nhuận của năm 2023E, nhưng theo quan điêm của Yuanta, vấn đề này không ảnh hưởng nhiều đến khả năng thanh khoản của MBB.
Nhìn chung, Yuanta cho rằng nợ xấu sẽ tăng vào năm 2023E và các ngân hàng có tỷ lệ LLR thấp có thể cần tăng trích lập dự phòng, điều đó sẽ làm giảm lợi nhuận. Ngược lại, các ngân hàng có tỷ lệ LLR cao (ví dụ như VCB) sẽ có thể linh hoạt hơn trong việc giảm trích lập dự phòng và từ đó thúc đẩy tăng lợi nhuận. Yuanta dự báo chi phí trích lập dự phòng của toàn ngành sẽ tăng +13% YoY vào năm 2023E.
Yuanta dự báo LNST của CĐCT mẹ (PATMI) của toàn ngành sẽ tăng +16% YoY trong năm 2023E nhờ vào sự tăng trưởng của thu nhập lãi thuần (+12% YoY) và thu nhập phí thuần (+20% YoY). Dự báo tăng trưởng PATMI của Yuanta thấp hơn so với mức tăng trưởng của năm 2022E, chủ yếu là do tăng trưởng tín dụng giảm và dự báo trích lập dự phòng tăng cao hơn.
Yuanta dự báo tăng trưởng cho vay sẽ đạt 13% YoY trong năm 2023E. Yuanta cho rằng NIM sẽ gặp áp lực trong 1H23 trong điều kiện chi phí huy động vốn tăng cao, nhưng NIM có thể sẽ cải thiện trong 2H23 khi lãi suất ổn định trở lại. Yuanta dự báo tỷ lệ NIM của toàn ngành sẽ không đổi so với cùng kỳ và sẽ ở mức 3,57% trong năm 2023E.
Yuanta dự báo chi phí trích lập dự phòng sẽ tăng +13% YoY trong năm 2023E do nợ xấu tiềm ẩn gia tăng liên quan đến bất động sản. Tuy nhiên, các ngân hàng có tỷ lệ LLR cao (như BID, CTG, MBB và đặc biệt là VCB) sẽ linh hoạt hơn trong việc giảm trích lập dự phòng và từ đó thúc đẩy tăng lợi nhuận.
Với tỷ lệ LLR cao và ít liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp, VCB là ngân hàng có thể linh hoạt trong việc giảm dự phòng và từ đó thúc đẩy lợi nhuận trong năm 2023E. Đây cũng là động lực chính cho dự báo lợi nhuận 2023E của Yuanta đối với VCB. Tất nhiên, điều này cũng sẽ là rủi ro trọng yếu đối với mô hình định giá VCB của Yuanta nếu ngân hàng lựa chọn không giảm trích lập dự phòng.