|
Mỏ vàng Kupol nằm ở khu tự trị Chukotka, vùng đất xa nhất về phía đông bắc và là phần lãnh thổ duy nhất của Nga có diện tích ở Tây bán cầu. |
|
Mỏ vàng này được phát hiện vào khoảng những năm 1940. Tuy nhiên, nhiệt độ ở đây quá lạnh. Vào mùa đông, nhiệt độ trung bình vào khoảng âm 50 độ C và nguồn cung cấp thực phẩm phải được chuyển đến đây trước hai năm. Môi trường vô cùng khắc nghiệt, khai thác vàng một mình rất khó tồn tại. |
|
Vấn đề khai thác vàng ở mỏ Kupol đã bị trì hoãn cho đến năm 2008. Năm 2007, Tập đoàn vàng Kinross Gold của Canada đã mua toàn bộ mỏ vàng Kupol với giá 700 triệu USD và bắt đầu tiến hành khai thác bằng thiết bị chuyên dụng năm 2008. |
|
Tính đến năm 2011, mỏ vàng Kupol đã sản xuất 2 triệu ounce vàng và hơn 20 triệu ounce bạc. Năm 2019, công ty này khai thác được 20% tổng lượng vàng trên thế giới. |
|
Hiện nay bên trong khu vực mỏ vàng Kupol đã xây dựng cơ sở vật chất hiện đại hóa tương đối hoàn thiện, có khu sinh hoạt ấm áp thoải mái, nơi nghỉ ngơi giải trí đa dạng, thậm chí còn có phòng cầu nguyện dành cho những người có đạo. |
|
Kupol được xem là mỏ vàng hiện đại nhất thế giới. Thông qua hệ thống điều khiển từ xa, những giàn khoan được bao bọc cẩn thận này có thể khoan đến những ngóc ngách sâu nhất dưới lòng đất, giảm thiểu nguy cơ tai nạn lao động với thợ mỏ. |
|
Công việc dưới lòng đất vẫn yêu cầu công nhân trực tiếp có mặt nhưng không cần nhiều người. Nhiệm vụ của họ là gia cố tường thành và giám sát vận chuyển quặng. |
|
Khoảng 1.200 người có mặt tại khu mỏ để làm việc liên tục trong 4 tuần, sau đó nghỉ 4 tuần rồi trở lại làm việc. Những người ở xa hơn thì chu kỳ là 6 tuần. |
|
Những người làm việc tại khu mỏ sống trong khu nhà ở đầy tiện nghi trị giá 40 triệu USD. |
|
Một đường hầm dài 900m kết nối giữa khu nhà ở và khu làm việc. Đường hầm được làm ấm bằng nhiệt độ tỏa ra từ việc xử lý quặng, giúp công nhân tránh được cái lạnh bên ngoài. |
|
Nhân viên khu mỏ được trả lương cao hơn khoảng 25% so với mức bình quân của khu vực. Họ chủ yếu là người Nga và Ukraine. |