Gần 15.000 doanh nghiệp FDI đang lỗ luỹ kế nửa triệu tỷ đồng

Bộ Tài chính vừa có báo cáo tài chính năm 2019 của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Số lượng doanh nghiệp được thực hiện phân tích là 22.603 doanh nghiệp, chiếm 99,9% trong tổng số 22.617 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chi phối.
Doanh thu tăng nhưng lỗ liên tiếp
Năm 2019, 9.494 doanh nghiệp có kết quả sản xuất kinh doanh lãi, chiếm tỷ lệ 45% doanh nghiệp có báo cáo, với trị giá lãi là 518.509 tỷ đồng. Số lượng này tăng 18% so với năm 2018. Một số ngành có sự gia tăng lợi nhuận trước thuế cả về số tuyệt đối và số tương đối gồm Sản xuất, phân phối, kinh doanh điện tăng 96,1%, dịch vụ khác tăng 211%.
Số doanh nghiệp có kết quả sản xuất kinh doanh năm 2019 báo lỗ là 12.455 doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ 55% doanh nghiệp có báo cáo với khoản lỗ 131.455 tỷ đồng. Tổng tài sản của các doanh nghiệp báo lỗ năm 2019 là 2 triệu tỷ đồng, giảm 0,7% so với tổng tài sản của các doanh nghiệp báo lỗ năm 2018. Mặc dù vậy doanh thu của các doanh nghiệp tăng 12,7%, đạt 846.894 tỷ đồng.
Một số nhóm ngành trong hai năm liền số liệu tổng hợp là lỗ trước và sau thuế, số lỗ năm trước nhiều hơn năm sau là sản xuất sắt thép và kim loại khác, dầu khí, xăng dầu, nhiên liệu khó và sản phẩm hoá dầu.
Luỹ kế đến hết năm 2019, có 14.822 doanh nghiệp có lỗ luỹ kế trên báo cáo tài chính, chiếm tỷ lệ 66% doanh nghiệp có báo cáo, tổng giá trị lỗ luỹ kế trên báo cáo tài chính là 520.742 tỷ đồng, bằng 41% vốn đầu tư chủ sở hữu. Doanh thu của các doanh nghiệp lỗ luỹ kế năm 2019 là 1,3 triệu tỷ đồng, tăng 20,4% so với doanh thu của các doanh nghiệp có lỗ luỹ kế năm 2018.
Số lượng doanh nghiệp lỗ mất vốn năm 2019 là 3.545 doanh nghiệp, chiếm 15,7% trong tổng số doanh nghiệp có báo cáo, tăng 24% so với năm 2018 với tổng giá trị vốn chủ sở hữu trên báo cáo tài chính là âm 103,8 tỷ đồng. Trong đó có 2.160 doanh nghiệp doanh thu vẫn tăng trưởng.
Về tình hình nộp ngân sách nhà nước, năm 2019, số thu về các sắc thuế nội địa không kể dầu thô của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 210.234 tỷ đồng, tăng 12,8% so với năm 2018.
Bộ Tài chính nhấn mạnh, hiệu quả sử dụng tài sản, sử dụng vốn đầu tư tại các doanh nghiệp FDI còn thấp, chưa phát huy hết tiềm lực, nộp ngân sách chưa tương xứng với những ưu đãi được hưởng.
Ngoài một số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu quả kinh tế cao, đóng góp ngân sách tốt thì còn tồn tại nhiều dự án đầu tư chưa cao, đóng góp ngân sách thấp.
Hiện tượng chuyển giá, trốn thuế diễn ra ở một số doanh nghiệp FDI. Doanh nghiệp luôn báo lỗ thậm chí lỗ liên tục nhiều năm nhưng vẫn mở rộng sản xuất kinh doanh, doanh thu các năm đều tăng gây thất thoát, thiệt hại cho ngân sách nhà nước.
Vốn FDI Trung Quốc lớn nhưng khả năng sinh lời thấp
Cũng theo báo cáo, tỷ suất lợi nhuận ròng trên doanh thu (ROS) sau thuế của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 2019 là 4,52%, giảm so với mức 4,72% của năm 2018.
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) năm 2019 là 12,53%, giảm mạnh so với mức 13,35% của năm 2018. Tỷ suất lợi nhuận ròng trên tài sản (ROA) của doanh nghiệp FDI là 4,19%, giảm so với mức 4,5% của năm 2018.
Các nhóm ngành có tỷ suất sinh lời trước thuế trên vốn chủ sở hữu năm 2018 cao gồm: Sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy và xe có động cơ khác là 44,2%. Công nghiệp chế biến thực phẩm, rượu, bia, nước giải khát là 19%, Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh là 35,9%.
Các nhóm ngành viễn thông, phần mềm, dầu khí, xăng dầu và các sản phẩm hoá dầu, sắt thép, kim loại có rổng hợp lợi nhuận của cả lĩnh vực năm 2019 là âm.
Xếp theo quốc gia, vùng lãnh thổ thì các doanh nghiệp vốn FDI đến từ châu Âu có tổng hợp khả năng sinh lời cao nhất.
Nhóm doanh nghiệp của các quốc gia vùng lãnh thổ có vốn đăng ký vào Việt Nam lớn nhất gồm Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan, BritishVirginIslands có tổng hợp khả năng sinh lời ở mức hợp lý.
Hai nhà đầu tư có trong top 10 đầu tư lớn vào Việt Nam là Hồng Kông, Trung Quốc tổng hợp khả năng sinh lời thấp, ROE lần lượt là 9% và 1%, ROA là 4% và 5%.
Một số quốc gia vùng lãnh thổ trong top 10 đầu tư lớn vào Việt Nam như Australia, Brunei, Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia thì có số tổng hợp là lỗ trước thuế và sau thuế. Síp có 3 doanh nghiệp có vốn đầu tư vào Việt Nam thì có 2 doanh nghiệp báo lỗ, và lỗ mất vốn chủ sở hữu.
Các doanh nghiệp FDI đang đầu tư vào 29 lĩnh vực khác nhau, trong đó 6 lĩnh vực đầu tư lớn chiếm gần 70% tổng doanh thu của khu vực FDI. Cụ thể, lĩnh vực linh kiện điện tử, máy vi tính và thiết bị ngoại vi máy tính, thiết bị quang học chiếm 32,2% doanh thu; dệt, may, da giày chiếm 11,4% doanh thu.
Lĩnh vực thương mại, bán buôn, bán lẻ chiếm 6,8% doanh thu; hóa chất, nhựa, mỹ phẩm chiếm 5,4% doanh thu; sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy, động cơ khác chiếm 5,2% doanh thu; công nghiệp chế biến thực phẩm, rượu bia, nước giải khát và đồ uống khác chiếm 5,1% doanh thu.
Sáu địa phương thu hút vốn đầu tư FDI lớn nhất cả nước là Tp.HCM, Hà Nội, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bình Dương, Đồng Nai. Trong đó, Tp.HCM là địa phương thu hút vốn đầu tư FDI lớn nhất cả nước, giá trị tài sản các doanh nghiệp FDI đầu tư vào thành phố ước đạt hơn 1,8 triệu tỉ đồng, chiếm 23,6% vốn đầu tư FDI của cả nước.
Theo Kiều Linh/VNEconomy

ĐỘC GIẢ BÌNH LUẬN