Biết gì về nguồn gốc 36 phố phường ở Hà Nội?

(VietnamDaily) -  Cụm từ “36 phố phường” rất quen thuộc khi nói về Hà Nội, nhưng lịch sử có từ khi nào không phải ai cũng biết. Các sử liệu cho thấy, “36 phố phường” có thể xuất hiện từ đời vua Lê Hiển Tông. 
 

 Vì sao mọi người hay nhắc tới câu “Hà Nội 36 phố phường”? Có lẽ “công tích” thuộc về nhà văn Thạch Lam. Tác phẩm “Hà Nội 36 phố phường” của Thạch Lam quá nổi tiếng, nên dù không là sự thật lịch sử thì vẫn được mọi người đón nhận. 

Và người ta vẫn dùng “Hà Nội 36 phố phường” như “5 cửa ô” của Văn Cao hay Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội của Nguyễn Đình Thi. Tác dụng của Văn học nghệ thuật là cực kỳ lớn. Rất tiếc là khoa học chưa can dự để trả lại tính chính xác của các thông tin này bên cạnh tính hấp dẫn của nó”.

Biet gi ve nguon goc 36 pho phuong o Ha Noi?
 Hàng Nón xưa. 

Một trong các số các bài ca về 36 phố phường được ghi trong sách “Việt Nam thi văn hợp tuyển” của Dương Quảng Hàm có nội dung như sau:

“Rủ nhau chơi khắp Long thành

Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai:

Hàng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai,

Hàng Buồm, hàng Thiếc, hàng Hài, hàng Khay,

Mã Vĩ, hàng Điếu, hàng Giầy

Hàng Lờ, hàng Cót, hàng Mây, hàng Đàn, 

Phố Mới, Phúc Kiến, hàng Ngang,

Hàng Mã, hàng Mắm, hàng Than, hàng Đồng,

Hàng Muối, hàng Nón, cầu Đông,

Hàng Hòm, hàng Đậu, hàng Bông, hàng Bè,

Hàng Thùng, hàng Bát, hàng Tre,

Hàng Vôi, hàng Giấy, hàng The, hàng Gà,

Quanh đi đến phố hàng Da,

Trải xem hàng phố, thật là cũng xinh.

Phồn hoa thứ nhất Long thành,

Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ.

Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ,

Bút hoa xin chép vần thơ lưu truyền”.

Xét theo ghi chép của sách sử thì 36 phố phường được đặt ra từ thời vua Lê Hiển Tông, vị hoàng đế thứ 26 của nhà Hậu Lê. Ông tên thật là Lê Duy Diêu, con trai trưởng của Lê Thuần Tông, sinh tháng 4 năm Đinh Dậu (1717),  được chú ruột là Lê Ý Tông truyền ngôi vào ngày 21 tháng 5 năm Canh Thân (1740). Lê Hiển Tông ở ngôi 46 năm và chỉ đặt một niên hiệu là Cảnh Hưng (1740 - 1786), ông mất vào tháng 7 năm Bính Ngọ (1786), thọ 69 tuổi.

Lại nói về “36 phố phường”, ban đầu được đặt ra với mục đích duy nhất là thuận tiện hơn trong việc giữ gìn an ninh, trật tự. Theo sách “Đại Việt sử ký tục biên”, vào tháng 12 năm Mậu Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748) triều đình “hạ lệnh chia bên trong kinh thành làm 36 khu, mỗi khu đặt một quan coi giữ việc tuần phòng, khám xét. Lại định phép ty tộc đoàn (liên kết các gia tộc ở gần nhau cùng giữ an ninh-TG). Tiếp đó lại chia làm 9 điện, mỗi điện có 4 khu, mỗi khu đặt một viên chánh khu”.

Biet gi ve nguon goc 36 pho phuong o Ha Noi?-Hinh-2
Hàng Tre xưa.  

Trong tác phẩm “Vũ Trung tùy bút” của danh sĩ sống vào giai đoạn cuối thời Lê đầu thời Nguyễn là Phạm Đình Hổ cho biết cụ thể hơn về điều này:

Kinh thành Thăng Long chia ra 36 phường, mỗi phường đặt một người phường trưởng. Lại đặt ra phủ Phụng Thiên có quan Phủ doãn, quan Thiếu doãn kiêm coi cả việc tuần phủ và việc liêm sát, đốc suất hai huyện Thọ Xương và Quảng Đức, mỗi huyện có quan Huyện úy cai trị. Toàn thành thì cử một quan trọng thần sung chức Đề lĩnh tứ thành quân vụ, phân ra chánh phó hai dinh, chuyên coi việc cấm phòng, xét hỏi.

Song đất kinh thành đông đúc, nhà ở liền nhau, thường có hỏa hoạn, lại nhiều những kẻ đầy tớ nhà quan, du đãng cờ bạc, gây chuyện đánh nhau, cãi nhau, cùng là những kẻ vô lại trộm cắp, nhiều lắm không thể kể xiết được, chẳng khác gì lục hải khi xưa là nơi bể cạn, vật sản rất nhiều, mà lại không thiếu một hạng người nào cả.

Đời Trịnh An Đô Vương (tức Trịnh Cương- TG), Nguyễn Công Hãng làm Thượng thư cầm quyền chính, mới chia hai huyện ra làm tám khu, mỗi khu đặt một người trưởng khu và một người phó khu; lại chia ra năm nhà là một tị, hai tị là một lư, mỗi lư cũng có một lư trưởng; bốn lư là một đoàn, mỗi đoàn đặt một quản giám, hai quản điểm, dưới quyền người khu trưởng và trực thuộc quan Đề lĩnh. Đó là phỏng cái ý cổ nhân bảo trợ phù trì lẫn nhau.

Phàm những việc phòng hỏa, phòng trộm và nhất thiết những việc giao dịch thuế má đều ủy trách cho khu trưởng, đoàn trưởng cả. Bởi vậy, những con nhà khá giả coi thường, không thèm ra làm, chỉ để cho những côn đồ trong các xóm chợ ra làm. Bọn chúng cùng những kẻ ti thuộc quan Đề lĩnh thông nhau làm càn, rất phiền nhiễu cho dân phố. Ôi! “Sinh nhất sự bất như trừ nhất hại” (thêm ra một việc không bằng bớt đi một tai hại) lời nói ấy rất đúng.

Theo lệ cũ, chốn kinh thành không phải chịu thuế dung, thuế điệu, chỉ tính từng dãy nhà, không cứ nhà quan hay nhà dân, hàng năm mỗi nhà phải chịu một suất đi sửa sang đắp lại nền cắm cờ tướng, dọn cỏ chung quanh cung đình, cung ứng các việc kiến trúc.

Họ phải thay phiên nhau sắm đủ dây đòn, câu liêm, thang tre, bó đuốc, thùng gánh nước để theo quân quan Đề lĩnh đi túc trực các nơi điếm canh, phòng khi sai khiến; công việc rất là phiền nhiễu. Song tóm lại không tiền là không xong, chỉ làm nặng túi kẻ gian hoạt. Tuy bảo rằng “phù bản ức mạt” (bồi đắp gốc rễ, ngăn chặn ngọn cành), nhưng cũng không phải là biện pháp tốt của đời thái bình”.

Biet gi ve nguon goc 36 pho phuong o Ha Noi?-Hinh-3
Hàng Chiếu xưa.  

Đến thời vua Gia Long nhà Nguyễn, trong một số sách dư địa chí như cuốn “Các tổng, trấn, xã danh bị lãm”, “Hoàng Việt dư địa chí”… cho biết tên của 36 phường. Cụ thể, ở huyện Thọ Xương có 18 phường gồm: Yên Thọ, Hà Khẩu, Báo Thiên, Đông Hà, Đồng Xuân, Đông Tác, Đông Các, Cổ Vũ, Xã Đàn, Đồng Lạc, Thái Cực, Diên Hưng, Khúc Phố, Phục Cổ, Phúc Lâm, Kim Hoa, Hồng Mai, An Xá.

Mười tám phường còn lại  thuộc huyện Vĩnh Thuận là: Bích Câu, Quảng Bá, Thuỵ Chương, Yên Thái, Hoè Nhai, Tây Hồ, Nghi Tàm, Nhật Chiêu, Trích Sài, Võng Thị, Bái Ấn, Yên Lãng, Công Bộ, Thạch Khối, Hồ Khẩu, Thịnh Quang, Yên Hoa và Quan Trạm.

Vào năm Tân Mão (1831) vua Minh Mạng tiến hành cuộc cải cách lớn, trong đó có việc phân chia và đặt tên mới theo địa giới hành chính cấp tỉnh; lúc này Thăng Long xưa được sáp nhập với một số khu vực khác thành tỉnh Hà Nội với diện tích rộng hơn, gồm 4 phủ, 15 huyện so với Thăng Long xưa.

Trong số 15 huyện của Hà Nội vẫn có 2 huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận thuộc phủ Hoài Đức, 36 phố phường đều nằm trong địa phận hai huyện này. Sách “Hoàng Việt dư địa chí” in vào năm Quý Tỵ (1833) cho biết như sau: “Phủ Hoài Đức, xưa là phủ Phụng Thiên có hai huyện, 13 tổng, 249 thôn phường. Huyện Thọ Xương: 18 phường. Huyện Vĩnh Thuận (xưa là huyện Quảng Đức): 18 phường”.

Trải qua thời gian và biến thiên của lịch sử, phố phường Hà Nội xưa đã thay đổi nhiều về tên gọi, số lượng cũng như diện tích nhưng một số vẫn giữ nguyên tên cũ như gợi nhắc cho những tâm hồn hoài niệm về một Hà Nội trong quá khứ. 

Dạo quanh khu phố nghề quy mô nhất Hà Nội

(VietnamDaily) - Trong các phố nghề truyền thống còn được duy trì ở 36 phố phường Hà Nội, phố Hàng Thiếc với nghề làm đồ thiếc là phố nghề quy mô lớn nhất.

Dao quanh khu pho nghe quy mo nhat Ha Noi
Nằm ở phía Tây khu phố cổ Hà Nội, phố Hàng Thiếc dài khoảng 140 mét, một đầu thông sang phố Hàng Nón và một đầu là ngã tư Bát Đàn - Thuốc Bắc. Trong các phố nghề truyền thống còn được duy trì ở 36 phố phường Hà Nội, phố Hàng Thiếc với nghề làm đồ thiếc là phố nghề quy mô lớn nhất.
Dao quanh khu pho nghe quy mo nhat Ha Noi-Hinh-2
Phố nằm trên nền đất xưa thuộc thôn Yên Nội, tổng Tiền Túc (sau đổi là tổng Thuận Mỹ), huyện Thọ Xương. Tương truyền, cụ tổ đời thứ 3 của họ Trần quê ở thôn Đan Hội (phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông cũ) là người khai sinh ra nghề thiếc ở phố này.

'Khúc ruột thừa' của Hà Nội có gì đặc biệt?

(VietnamDaily) - Một nét đặc biệt khiến phố Hàng Vôi khác với các đường phố khác trong 36 phố phường Hà Nội là con phố này còn có một khúc “ruột thừa”.

'Khuc ruot thua' cua Ha Noi co gi dac biet?
Phố Hàng Vôi là dài khoảng 300 mét, kéo dài từ phố Hàng Tre đến phố Tông Đản, phía Tây hồ Hoàn Kiếm của Hà Nội. Phố nằm trên đất của hai thôn Kiếm Hồ và Tây Luông, thuộc tổng Tả Túc (sau đổi là tổng Phúc Lâm), huyện Thọ Xương cũ.
'Khuc ruot thua' cua Ha Noi co gi dac biet?-Hinh-2
Tên gọi phố Hàng Vôi có nguồn gốc từ việc trước đây phố này ở sát ngay sông Hồng, tiện cho thuyền vôi các tỉnh Đoài, tỉnh Nam tới cập bến bốc dỡ. Dọc phố cũng có nhiều chỗ nung vôi và bán vôi cục.

Bác sĩ Bệnh viện Vạn Phúc 1 phẫu thuật chết người: Khi nào cần mổ thoát vị đĩa đệm?

(VietnamDaily) - Ngày 8/10, nữ bệnh nhân NTB (39 tuổi, HKTT tại huyện Phú Giáo, Bình Dương) đã chết bất thường khi làm phẫu thuật thoát vị đĩa đệm tại Bệnh viện Hoàn mỹ Vạn Phúc 1.

Giám đốc Bệnh viện Hoàn Mỹ Vạn Phúc 1 (TP Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương) Nguyễn Ngọc Bảo Long cho biết bệnh nhân N.T.B đến khám và nhập viện ngày 7/10. Chị B. được chẩn đoán thoát vị đĩa đệm và được chỉ định phẫu thuật. Ca mổ bắt đầu lúc 8h40 phút ngày 8/10, diễn biến trong cuộc mổ không có gì bất thường.
Bac si Benh vien Van Phuc 1 phau thuat chet nguoi: Khi nao can mo thoat vi dia dem?
Lực lượng chức năng có mặt tại Bệnh viện Hoàn mỹ Vạn Phúc 1 để điều tra vụ việc. Ảnh: PLO. 

Tuy nhiên, khi phẫu thuật viên chính đang khâu da để kết thúc ca mổ thì bệnh nhân đột ngột bị trụy tim mạch, mạch không bắt được, huyết áp tụt nhanh. Kíp mổ đã tiến hành hồi sức tim phổi ngay trên bàn mổ. Sau đó, bệnh nhân được chuyển về khu hồi sức trung tâm và tiếp tục quá trình hồi sức tích cực, nhưng tình hình không được cải thiện và bệnh nhân đã tử vong lúc 14h30 cùng ngày.

Trước khi vào phòng mổ, bệnh nhân B. vẫn khỏe mạnh. Tuy nhiên, đến chiều cùng ngày thì gia đình nhận được thông báo từ bệnh viện là bệnh nhân B. đã tử vong. Bệnh viện cho biết lý do bệnh nhân B. tử vong trong quá trình điều trị là do tụt huyết áp.

Thoát vị đĩa đệm là bệnh thường gặp, khó chữa, dễ tái phát nếu lựa chọn phương án điều trị không hiệu quả.

Phẫu thuật thoát vị đĩa đệm được chỉ định khi các phương pháp chữa trị truyền thống khác không phát huy tác dụng. Để đưa ra chỉ định mổ, bác sĩ cần thăm khám cẩn thận, xem xét các hình ảnh MRI, CT và liệu trình chữa trị trước đây của người bệnh. Vì phẫu thuật là phương pháp nhiều rủi ro nhưng hiệu quả không cao nên chỉ được các bác sĩ chuyên khoa áp dụng rất hạn chế.

Điều trị bệnh thoát vị đĩa đệm

nhiều phương pháp điều trị thoát vị đĩa đệm khác nhau. Tùy thuộc vào tình trạng và giai đoạn của bệnh nhân mà bác sĩ đưa ra phương án điều trị phù hợp hoặc kết hợp các phương pháp với nhau. Nhìn chung, sau đây là các phương pháp thường được áp dụng trong điều trị thoát vị đĩa đệm.

Điều trị nội khoa

Vật lý trị liệu - Phục hồi chức năng

Châm cứu, Y học cổ truyền, mát xa, bấm huyệt

Điều trị Ngoại khoa: phẫu thuật, phẫu thuật nội soi

Điều trị công nghệ laser

Điều trị công nghệ sóng radio, sóng cao tần

Để tìm được phương pháp điều trị phù hợp, bệnh nhân nên đi khám với bác sĩ chuyên khoa để được chẩn đoán và tư vấn.

Thoát vị đĩa đệm có nên mổ không

Theo thống kê, khoảng 90% bệnh nhân thoát vị đĩa đệm điều trị nội khoa kết hợp với các phương pháp phục hồi, vật lý trị liệu. Chỉ khoảng dưới 10% bệnh nhân thoát vị đĩa đệm cần tiến hành phẫu thuật.

Thông thường, việc phẫu thuật chỉ thực thực hiện sau một thời gian điều trị nội khoa kết hợp vật lý trị liệu, phục hồi chức năng mà không mang lại kết quả. Hoặc bệnh nhân cấp tính cần phẫu thuật ngay.

Bac si Benh vien Van Phuc 1 phau thuat chet nguoi: Khi nao can mo thoat vi dia dem?-Hinh-2
Chỉ khoảng dưới 10% bệnh nhân thoát vị đĩa đệm cần tiến hành phẫu thuật. Ảnh minh họa.